Phước Thiện – Trong một buổi lễ làm phước thiện, nhiều người cùng nhau làm Phước Thiện mà mỗi người tạo cho mình mỗi đại thiện nghiệp khác nhau, nguyên nhân vì sao?

Phước Thiện trong Puññakriyāvatthu có 10 pháp:

1- Phước thiện bố thí (Dāna kusala)

2- Phước thiện giữ giới (Sīla kusala)

3- Phước thiện hành thiền (Bhāvanā kusala)

4- Phước thiện cung kính (Apaccāyana kusala)

5- Phước thiện hỗ trợ (Veyyāvacca kusala)

6- Phước thiện hồi hướng (Pattidāna kusala)

7- Phước thiện hoan hỷ phước (Pattānumodanā kusala)

8- Phước thiện nghe pháp (Dhammassavana kusala)

9- Phước thiện thuyết pháp (Desanā kusala)

10- Phước thiện chánh kiến (Diṭṭhijukamma kusala)

Trong 10 loại phước thiện này, phước thiện bố thí là phước thiện mà người thí chủ cần phải có của cải tài sản hoặc có vốn hiểu biết nhiều và cao thâm mới có thể tạo phước thiện bố thí đến cho những người khác hoặc các chúng sinh khác được.  9 loại phước thiện còn lại, người ta không cần thiết phải có của cải tài sản mà chỉ cần có sự hiểu biết trong công việc phước thiện ấy là đủ.

Trong 10 phước thiện ấy, phước thiện bố thí là phước thiện thấp so sánh với các phước thiện khác.

Phước thiện giữ giới, phước thiện hành thiền, phước thiện cung kính, phước thiện hỗ trợ, phước thiện hồi hướng, phước thiện hoan hỷ phước, phước thiện nghe pháp, phước thiện thuyết pháp, phước thiện chánh kiến là những phước thiện cao theo mỗi phước thiện, hơn phước thiện bố thí nhiều.

Một số người có quan niệm rằng: “Tôi không có của cải nhiều để làm phước thiện bố thí như người ta.” Họ không biết còn 9 loại phước thiện kia có phước thiện cao hơn mà không dùng đến của cải, mà chỉ cần sự hiểu biết để tạo phước thiện ấy mà thôi.

1- Phước Thiện Bố Thí (Dānakusala)

Dānakusala: Phước thiện bố thí

Định nghĩa Dāna:

“Dīyati etenāti dānaṃ” (Các thí chủ bố thí với tác ý thiện tâm, tác ý là nhân của sự bố thí)

Dānakusala: Bố thí là phước thiện gọi phước thiện bố thí. Để thành tựu phước thiện bố thí cần hội đủ 3 điều kiện:

1- Cetanādāna: Tác ý thiện tâm bố thí. Người thí chủ có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí đến người thọ thí.

2- Vatthudāna: Vật bố thí. Các vật thí của người thí chủ như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh, v.v….

3- Paṭiggāhaka: Người thọ thí nhận vật thí của thí chủ.

Cetanādāna: Tác ý thiện tâm bố thí có 3 thời kỳ:

1- Pubbacetanādāna: Tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí. Người thí chủ phát sinh tác ý thiện tâm hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí (chưa bố thí). Thời gian trước khi bố thí lâu hoặc mau tùy thuộc vào thí chủ và ngày làm phước thiện bố thí.

2- Muñcacetanādāna: Tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí. Người thí chủ có tác ý thiện tâm hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí với vật thí, và đồng thời người thọ thí đang nhận vật thí ấy của thí chủ. (thời gian: ngay khi ấy).

3- Aparacetanādāna: Tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí. Người thí chủ có tác ý thiện tâm hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí xong. Thời gian sau khi đã làm phước thiện bố thí này không hạn định, có thể sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm. Mỗi khi thí chủ niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy thì lại phát sinh tác ý thiện tâm hoan hỷ.

Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí đầy đủ cả 3 thời kỳ thì phước thiện bố thí ấy có quả báu đầy đủ lớn lao vô lượng.

Trong bài kinh Chaḷaṅgadānasutta ([1]) được tóm lược những điểm chính như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jeta-vana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, cận sự nữ Nanda-mātā là người dân xứ Veḷukaṇḍakī làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng có Ngài Đại Đức Sāriputta và Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna chủ trì.

Đức Thế Tôn nhìn bằng nhãn thông thấy cận sự nữ Nandamātā là người dân xứ Veḷukaṇḍakī làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng có Ngài Đại Đức Sāriputta và Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna chủ trì, hợp đủ 6 chi pháp, nên Đức Thế Tôn truyền dạy chư tỳ khưu rằng:

– Này chư Tỳ khưu! Cận sự nữ Nandamātā là người dân xứ Veḷukaṇḍakī làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng có Ngài Đại Đức Sāriputta và Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna chủ trì, hợp đủ 6 chi pháp. Phước thiện bố thí cúng dường hợp đủ 6 chi pháp như thế nào?

(Người thí chủ có đủ 3 chi pháp và Bậc thọ thí có đủ 3 chi pháp)

Người Thí Chủ Có 3 Chi Pháp

1- Thí chủ là người có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí.

2- Thí chủ là người có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí, cúng dường đến chư Đại Đức Tăng thọ thí,

3- Thí chủ là người có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí cúng dường xong rồi. Và sau khi niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, lại phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ nữa.

3 Chi Pháp Bậc Thọ Thí

1- Bậc thọ thí trong Phật giáo này là Bậc không còn tâm tham ái, hoặc đang thực hành để diệt đoạn tuyệt tâm tham ái;

2- Là Bậc không còn tâm sân hận, hoặc đang thực hành để diệt đoạn tuyệt tâm sân hận;

3- Là Bậc không còn si mê, hoặc đang thực hành để diệt đoạn tuyệt tâm si mê.

Phước thiện bố thí cúng dường hợp với 6 chi pháp này là dòng phước, dòng thiện vô lượng, có quả báu lớn lao vô lượng, có sự an lạc vô lượng không sao kể được.

Đó là trường hợp làm phước thiện bố thí cúng dường được trong sạch 2 bên: Người thí chủ có tác ý thiện tâm trong sạch trong 3 thời kỳ, và bậc thọ thí là bậc Thánh Tăng trong sạch thanh tịnh.

Vatthudāna: Vật bố thí

*Vật bố thí theo Tạng Kinh có 10 thứ cần thiết trong cuộc sống như:

1- Annadāna: Bố thí cơm,

2- Pānadāna: Bố thí nước,

3- Vatthadāna: Bố thí vải, quần áo,

4- Yānadāna: Bố thí xe cộ, giày dép,

5- Mālādāna: Bố thí hoa, vòng hoa,

6- Gandhadāna: Bố thí vật thơm,

7- Vilepana: Bố thí vật thoa,

8- Seyyādāna: Bố thí giường, chỗ nằm,

9- Āvasathagharadāna: Bố thí chỗ ở, nơi trú ngụ,

10- Padīpeyyadāna: Bố thí đèn cầy, đèn dầu…

*Vật bố thí theo Tạng Luật có 4 thứ vật dụng cần thiết đối với tỳ khưu, Sa-di, là:

1- Cīvaradāna: Bố thí cúng dường y phục,

2- Piṇḍapātadāna: Bố thí cúng dường vật thực,

3- Senāsanadāna: Bố thí cúng dường chỗ ở,

4- Bhesajjadāna: Bố thí cúng dường thuốc trị bệnh.

*Vật bố thí theo Tạng Vi Diệu Pháp có 6 loại là:

1- Rūpadāna: Bố thí cúng dường đối tượng sắc,

2- Saddadāna: Bố thí cúng dường đối tượng thanh,

3- Gandhadāna: Bố thí cúng dường đối tượng hương, 

4- Rasadāna: Bố thí cúng dường đối tượng vị,

5- Phoṭṭhabbadāna: Bố thí cúng dường đối tượng xúc

6- Dhammadāna: Bố thí cúng dường đối tượng pháp.

*10 vật thí theo Tạng Kinh, là những thứ cần thiết dùng trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người tại gia cư sĩ. Nếu thí chủ làm phước thiện bố thí các vật thí ấy đến người tại gia cư sĩ thì được phước thiện bình thường, và có được quả báu bình thường.

*4 vật thí theo Tạng Luật, là 4 thứ vật dụng cần thiết đối với những bậc xuất gia tỳ khưu, Sa-di. Nếu thí chủ làm phước thiện bố thí cúng dường 4 thứ vật dụng ấy đến chư tỳ khưu Tăng thì được nhiều phước thiện cao quý, và có được quả báu cao quý lớn lao.

*6 vật thí theo Tạng Vi Diệu Pháp, là 6 đối tượng thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) vô cùng vi tế. Nếu muốn cúng dường 6 đối tượng này thì thí chủ hướng thiện tâm đến đối tượng nào cúng dường đến Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, Tam Bảo. Đó gọi là sự cúng dường vật thí theo Tạng Vi Diệu Pháp.

Paṭiggāhaka: Người thọ nhận vật thí của thí chủ

Thí chủ làm phước thiện bố thí đến Cá Nhân Thọ Thí

(Pāṭipuggalikadāna) ([2]) có 14 hạng người từ bậc thấp cho đến bậc cao như sau:

1- Làm phước thiện bố thí đến loài súc sinh (chim, chó, mèo,…) mong có được 5 quả báu (sống lâu, sắc đẹp, an lạc, sức m ạnh, trí tuệ) 100 kiếp.

2- Làm phước thiện bố thí đến người phàm nhân không có giới, mong có được 5 quả báu 1000 kiếp.

3- Làm phước thiện bố thí đến phàm nhân có giới, mong có được 5 quả báu 100 ngàn kiếp.

 4- Làm phước thiện bố thí đến hành giả chứng đắc các bậc thiền và ngũ thông, mong có được 5 quả báu 100 ngàn tỉ kiếp.

5- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến hành giả đang thực hành pháp hành thiền tuệ, để chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo – Nhập Lưu Thánh Quả, mong có được 5 quả báu vô số kiếp.

6- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

7- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhập Lưu đang thực hành pháp hành thiền tuệ, để chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo – Nhất Lai Thánh Quả, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

8- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

9- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Nhất Lai đang thực hành pháp hành thiền tuệ, để chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo – Bất Lai Thánh Quả, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

10- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

11- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh Bất Lai đang thực hành pháp hành thiền tuệ, để chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo – A-ra-hán Thánh Quả, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

12- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến bậc Thánh

 A-ra-hán, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

13- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Độc Giác, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

14- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mong có được 5 quả báu vô số kiếp hơn nữa.

 Chư tỳ khưu Tăng thí (Saṃghadāna) có 7 cách

1- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng và chư tỳ khưu ni Tăng có Đức Phật chủ trì.

2- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng và chư tỳ khưu ni Tăng, sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn.

3- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng.

4- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu ni Tăng.

5- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số tỳ khưu Tăng và một số tỳ khưu ni Tăng.

6- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số tỳ khưu Tăng.

7- Làm phước thiện bố thí cúng dường đến một số tỳ khưu ni Tăng.

Thí Chủ Với Bậc Thọ Thí

Thí chủ với bậc thọ thí có 4 trường hợp:

1- Thí chủ có giới trong sạch với người thọ thí không có giới:

Nếu thí chủ là người có giới hạnh trong sạch, hành thiện pháp, làm phước thiện bố thí đến người thọ thí không có giới, hành ác pháp, thì được phước thiện bố thí nhiều, có quả báu nhiều.

Như trường hợp Đức Vua Bồ Tát Vessantara làm phước thiện bố thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến Bà-la-môn Jūjaka không có giới, hành ác pháp. Ngay khi ấy, do năng lực của pháp hạnh bố thí Ba-la-mật làm cho mặt đất rung chuyển, toàn thể chư thiên hoan hỷ đồng thanh tán dương ca tụng pháp hạnh bố thí Ba-la-mật ấy.

2- Thí chủ không có giới với người thọ thí có giới trong sạch, hành thiện pháp:

Nếu thí chủ là người không có giới, hành ác pháp, làm phước thiện bố thí đến người thọ thí có giới trong sạch, hành thiện pháp, thì có được phước thiện không nhiều, có quả báu không nhiều.

Như trường hợp ngư dân ở bên bờ sông Kalyāṇanadī, làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại Đức Dīghasoma 3 lần. Đến lúc lâm chung, phước thiện bố thí cúng dường ấy hiện ra, ngư dân nói rằng: “Nhờ phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại Đức Dīghasoma nâng đỡ tôi lên cõi trời.”

3- Thí chủ không có giới và người thọ thí cũng không có giới:

Nếu thí chủ là người không có giới, hành ác pháp, làm phước thiện bố thí đến người thọ thí cũng không có giới, hành ác pháp, thì được phước thiện không đáng kể.

Như trường hợp người thợ săn thú rừng làm phước thiện bố thí đến vị tỳ khưu phá giới (dussīla) đến 3 lần. Mỗi lần đều hồi hướng phần phước thiện ít ỏi ấy đến thân quyến đã quá vãng là hạng chúng sinh ngạ quỷ, nhưng ngạ quỷ ấy than vãn rằng: “Tỳ khưu phá giới ấy đã phá hoại phước thiện của ta rồi!”

Về sau, người thợ săn làm phước thiện bố thí đến vị tỳ khưu có giới trong sạch, hành thiện pháp, rồi hồi hướng phần phước thiện đến thân quyến là ngạ quỷ ấy. Khi ngạ quỷ ấy hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện ấy, nên được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, được tái sinh lên cõi thiện giới ngay khi đó.

4- Thí chủ có giới trong sạch, hành thiện pháp và người thọ thí cũng có giới trong sạch, hành thiện pháp:

Nếu thí chủ là người có giới trong sạch, hành thiện pháp, làm phước thiện bố thí đến Bậc có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp cao thượng, thì chắc chắn được phước thiện bố thí lớn lao vô lượng cho mình, rồi hồi hướng đến tất cả thân bằng quyến thuộc cùng tất cả chúng sinh trong muôn loài cũng đều được phước thiện vô lượng.

(Tóm lược từ bài Kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta)

Phước Thiện Bố Thí Cúng Dường Tấm Choàng

Tích Bà-la-môn Cūḷekasāṭaka ([3])

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, đề cập đến tích Bà-la-môn tên Cūḷekasāṭaka. Tích này được bắt nguồn như sau:

Trong quá khứ, thời kỳ Đức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian. Có một Bà-la-môn tên là Mahā Ekasāṭaka.

Trong hiện tại, thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, vị Bà-la-môn ấy có tên là Cūḷekasāṭaka sống tại kinh thành Sāvatthi. (Sở dĩ ông Bà-la-môn có tên Cūḷekasāṭaka này là vì 2 ông bà chỉ có một tấm choàng trên thân mình duy nhất mà thôi. Hằng ngày, nếu khi ông Bà-la-môn đi ra ngoài thì ông mặc tấm choàng này, bà Bà-la-môn phải ở trong nhà; và nếu khi bà Bà-la-môn đi ra ngoài thì bà mặc tấm choàng này, ông Bà-la-môn phải ở trong nhà)

Một hôm, nghe thông báo dân chúng trong kinh thành Sāvatthi đi nghe Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana, ông Bà-la-môn bảo với người vợ rằng:

– Này em! Họ thông báo dân chúng đi nghe pháp. Hai chúng ta chỉ có một tấm choàng trên thân mình duy nhất, nên không thể cùng đi chung với nhau được. Vậy, em đi nghe pháp ban ngày hay ban đêm?

Nghe chồng hỏi vậy, nên bà Bà-la-môn thưa rằng:

– Thưa anh, em xin đi nghe pháp ban ngày, còn anh nên đi nghe pháp ban đêm.

Bà Bà-la-môn mặc tấm choàng trên thân mình đi đến ngôi chùa Jetavana, nghe Đức Phật thuyết pháp ban ngày.

Ông Bà-la-môn ở lại trong nhà cả ngày. Buổi chiều, sau khi nghe pháp xong, bà Bà-la-môn trở về nhà.

Ông Bà-La-Môn Muốn Cúng Dường Tấm Choàng

Ông Bà-la-môn mặc tấm choàng trên thân mình đi đến

ngôi chùa Jetavana ban đêm. Đến ngồi gần Đức Phật, ông Bà-la-môn chú tâm lắng nghe Đức Phật thuyết pháp.

Khi ấy, 5 pháp hỷ lạc([4]) phát sinh làm cho toàn thân tâm của ông cảm giác an lạc chưa từng có bao giờ. Ông phát sinh thiện tâm có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, muốn cúng dường lên Ngài tấm choàng đang mặc trên mình,  nhưng tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng phát sinh, nên lại nghĩ rằng:

“Nếu ta cúng dường tấm choàng này thì vợ ta sẽ không có mặc, và ta cũng không có mặc.”

Khi ấy, tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng phát sinh kéo dài trong ông, rồi thiện tâm có đức tin trong sạch lại phát sinh lên, ông muốn cúng dường tấm choàng này, rồi tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng phát sinh trở lại làm cản trở đức tin trong sạch muốn cúng dường tấm choàng.

Do đó, khi thì thiện tâm có đức tin trong sạch muốn cúng dường tấm choàng phát sinh, khi thì tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng không muốn cúng dường tấm choàng phát sinh.

Như vậy, thiện tâm có đức tin trong sạch muốn cúng dường tấm choàng này với tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng; giữa 2 tâm ấy giằng co kéo dài trải qua canh đầu đêm, đến canh giữa đêm, cuộc chiến đấu giằng co giữa 2 tâm ấy vẫn chưa phân thắng bại.

Thắng Tâm Keo Kiệt Bằng Đức Tin Trong Sạch

Đến canh chót đêm, ông Bà-la-môn suy xét rằng:

“Cuộc chiến giằng co giữa thiện tâm có đức tin trong sạch với ác tâm có tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng đã trải qua 2 canh rồi. Nếu ta không thắng được ác tâm bủn xỉn keo kiệt này thì kiếp sống của ta không thể thoát khỏi 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh. Vậy, ta phải chiến thắng tâm bủn xỉn keo kiệt này.”

Sau khi suy xét như vậy, chế ngự được ác tâm bủn xỉn keo kiệt trong tấm choàng, thiện tâm có đức tin trong sạch nơi Đức Phật phát sinh, ông Bà-la-môn liền cởi tấm choàng trên thân mình, hai tay nâng tấm choàng cung kính đến cúng dường Đức Phật, ông đặt gần dưới hai bàn chân của Ngài, rồi ông sung sướng reo lên 3 lần rằng:

“Jitaṃ me! Jitaṃ me! Jitaṃ me!”

Tôi đã thắng rồi! Tôi đã thắng rồi! Tôi đã thắng rồi!

Phước Thiện Bố Thí Cho Quả Hiện Tại

Đức Vua Pasenadi Kosala đang ngồi nghe pháp, nghe ông Bà-la-môn reo lên như vậy, nên truyền bảo vị quan đến hỏi ông Bà-la-môn ấy rằng: Ông đã thắng ai vậy?

Tuân lệnh Đức Vua, Vị quan đến hỏi ông Bà-la-môn. Ông Bà-la-môn thưa với vị quan đầy đủ sự việc xảy ra theo tuần tự như vậy. Vị quan đến tâu lên Đức Vua Pasenadi Kosala về câu chuyện đầy đủ của ông Bà-la-môn ấy.

Nghe vị quan tâu như vậy, Đức Vua Pasenadi Kosala nghĩ rằng: “Ông Bà-la-môn ấy đã làm điều mà người

khác khó làm được. Vậy, ta nên tế độ ông.”

Đức Vua truyền bảo vị quan đem 1 cặp tấm choàng mới ban cho ông Bà-la-môn ấy.

Sau khi nhận được 1 cặp tấm choàng mới của Đức Vua ban, ông Bà-la-môn đem 1 cặp tấm choàng ấy cúng dường đến Đức Phật.

Thấy ông Bà-la-môn làm như vậy, Đức Vua Pasenadi Kosala truyền bảo vị quan ban cho ông Bà-la-môn ấy mỗi lần nhân gấp đôi là 2 cặp, 4 cặp, 8 cặp, 16 cặp tấm choàng. Lần nào ông Bà-la-môn cũng đem tất cả các cặp tấm choàng ấy cúng dường đến Đức Phật.

Đức Vua truyền bảo vị quan đem 32 cặp tấm choàng ban cho ông Bà-la-môn ấy.

Ông Bà-la-môn muốn tránh tiếng rằng: “Ông Bà-la-môn có được bao nhiêu cặp tấm choàng của Đức Vua ban đều làm phước thiện bố thí đến Đức Phật cả thảy, không để lại cho phần của mình.” Do đó, nên ông Bà-la-môn lấy ra 2 cặp tấm choàng: Phần của mình 1 cặp tấm choàng, và vợ ông 1 cặp tấm choàng. Còn lại 30 cặp tấm choàng, ông Bà-la-môn đem cúng dường đến Đức Phật.

Trong thời quá khứ, ông Bà-la-môn tên Mahā Ekasāṭaka cúng dường đến Đức Phật quá khứ 7 lần, lấy 2 cặp tấm choàng trong 64 cặp tấm choàng. Còn ông Bà-la-môn tên Cūḷekasāṭaka lấy 2 cặp tấm choàng trong 32 cặp tấm choàng.

Đức Vua Pasenadi Kosala truyền bảo các quan rằng:

– Này các khanh! Ông Bà-la-môn này đã làm những điều mà người khác khó làm được. Vậy, các khanh hãy đem 2 tấm kambala dệt bằng các lông thú trong cung điện của Trẫm đến đây.

Tuân theo lệnh của Đức Vua, các quan đem 2 tấm kambala có giá 100 ngàn đồng kahāpaṇa, ban cho ông Bà-la-môn ấy.

Sau khi nhận 2 tấm kambala ấy, ông Bà-la-môn nghĩ rằng: “Hai tấm kambala này thật là vô giá chỉ xứng đáng với Đức Phật Chánh Đẳng Giác và chư Đại Đức Tăng mà thôi. Vậy, ta nên đem cúng dường đến Đức Phật.”

Ông Bà-la-môn đem 1 tấm kambala đến Gandhakuṭi, làm trần che phía trên chỗ giường nằm cúng dường đến Đức Phật. Còn lại 1 tấm kambala, ông làm trần che phía trên chỗ vị Tỳ khưu ngồi độ vật thực trong nhà của ông.

Buổi chiều hôm ấy, Đức Vua Pasenadi Kosala ngự đến hầu đảnh lễ Đức Phật tại Gandhakuṭi, nhìn lên trần, thấy tấm kambala, Đức Vua nhớ tấm kambala ấy, nên

bạch với Đức Thế Tôn rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, ai là người làm trần nhà bằng tấm kambala này cúng dường đến Ngài?

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

– Này Đại Vương! Bà-la-môn tên Cūḷekasāṭaka làm cúng dường đến Như Lai.

Đức Vua Pasenadi Kosala nghĩ rằng: “Ông Bà-la-môn này tôn kính Đức Thế Tôn giống như ta tôn kính.”

Đức Vua Pasenadi Kosala truyền lệnh ban cho ông Bà-la-môn một trăm thứ mà mỗi thứ có 4 như sau:

4 con voi, 4 con ngựa, 4 người đàn bà, 4 người đàn ông 4 tớ trai, 4 tớ gái, 4 xóm làng để thâu thuế, 4000 Kahāpaṇa, v.v…

Phước Thiện Làm Mau Có Quả Hơn Làm Chậm

Chư tỳ khưu đàm đạo tại hội trường rằng: “Phước thiện của ông Bà-la-môn Cūḷekasāṭaka thật là phi thường! Chỉ có trong thời gian ngắn, phước thiện ấy cho quả tất cả mọi thứ mà mỗi thứ có 4. Phước thiện của ông tạo nơi Đức Thế Tôn, nên cho quả báu ngay trong ngày hôm ấy.”

Khi ấy, Đức Thế Tôn ngự đến hội trường, truyền hỏi chư tỳ khưu rằng:

– Này chư tỳ khưu! Các con đang ngồi đàm đạo về chuyện gì vậy?

Chư tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn về chuyện ông Bà-la-môn Cūḷekasāṭaka làm phước thiện bố thí và quả báu của phước thiện như vậy.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

– Này chư tỳ khưu! Nếu Bà-la-môn Cūḷekasāṭaka ấy có khả năng cúng dường đến Như Lai trong canh đầu đêm thì ông sẽ được tất cả mọi thứ mà mỗi thứ có 16.

Nếu Bà-la-môn ấy có khả năng cúng dường đến Như Lai trong canh giữa đêm thì ông sẽ được tất cả mọi thứ mà mỗi thứ có 8.

Nhưng hai canh đã trải qua, ông Bà-la-môn ấy không có khả năng cúng dường được, mãi cho đến canh chót, ông mới cúng dường đến Như Lai, nên ông được tất cả mọi thứ mà mỗi thứ chỉ có 4 mà thôi.

Thật vậy, khi nào thiện tâm phát sinh muốn làm phước thiện, thì thí chủ nên làm ngay khi ấy, không nên để thiện tâm ấy diệt mất.

Nếu thí chủ làm phước thiện bố thí chậm chạp thì có được quả báu chậm chạp và bị giảm sút. Cho nên, nếu thí chủ phát sinh thiện tâm muốn làm phước thiện bố thí thì nên làm ngay khi ấy, chớ nên chậm chạp.

Đức Phật thuyết câu kệ Dhammapadagāthā thứ 116:

Abhittharetha kalyāṇe, pāpā cittaṃ nivāraye.

Dandhaṃ hi karato puññaṃ, pāpasmiṃ ramatī mano”

Này chư Tỳ khưu! Hãy nên mau chóng làm các phước thiện, nên ngăn cản tâm bất thiện tội lỗi.

Khi thí chủ làm phước thiện chậm chạp, thì ác tâm có cơ hội phát sinh. Khi ấy, tâm lại thỏa thích trong tội lỗi. 

Để mọi phước thiện tăng trưởng vô lượng, quả báu của phước thiện vô lượng, khi thí chủ phát sinh thiện tâm có đức tin trong sạch trong mỗi phước thiện, nên làm phước thiện mau lẹ, không nên chần chừ, do dự, không để cho ác tâm có cơ hội phát sinh làm cản trở phước thiện ấy, thí chủ nên nghĩ rằng:

“Ahaṃ pure! Ahaṃ pure!”

“Ta là người đầu tiên! Ta là người đầu tiên!”

Sau khi thuyết tích này xong, Đức Thế Tôn thuyết về tứ Thánh đế tế độ chư tỳ khưu. Khi ấy, có nhiều vị chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân tùy theo pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi vị.

Phước Thiện Bố Thí Vật Thực

Tích Bhikkhādāyakavimāna ([5])

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh thành Rājagaha. Khi ấy, một vị tỳ khưu đi đường xa vất vả, đang đói, vào khất thực trong một xóm nhà, đến đứng khất thực trước cổng một ngôi nhà.

Trong nhà ấy, một người đàn ông đã rửa tay sạch sẽ, rồi ngồi xuống chỗ ngồi để dùng bửa ăn, các thức ăn đã bỏ vào trong đĩa xong, người đàn ông ấy nhìn ra trước cổng, thấy vị tỳ khưu đứng khất thực, ông vô cùng hoan hỷ, đem đĩa cơm gồm có các thức ăn đi ra trước cổng, hoan hỷ cung kính cúng dường đặt hết đĩa cơm cùng các thức ăn vào trong bình bát của vị tỳ khưu ấy.

Mặc dù vị tỳ khưu ấy bảo cận sự nam để trong bát của Ngài một phần, phần còn lại để ông dùng, nhưng ông cận sự nam vẫn đặt hết phần ăn của mình vào trong bát của Ngài. Vị tỳ khưu tụng kinh chúc phúc lành đến cận sự nam, rồi từ giã.

Người thí chủ vô cùng hoan hỷ niệm tưởng rằng: “Hôm nay, ta thật vô cùng hạnh phúc có được một vị tỳ khưu đến nhà khất thực, ta không dùng phần ăn của ta hôm nay mà đã đem làm phước thiện bố thí cúng dường đến vị tỳ khưu đang đói, rất cần vật thực.” Sau khi niệm tưởng như vậy, thí chủ phát sinh hỷ lạc chưa từng có.

Về sau, thí chủ ấy chết, sau khi chết, thiện nghiệp làm phước thiện bố thí cúng dường đến vị tỳ khưu ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam trong lâu đài bằng vàng cao 12 do tuần trên cõi trời Tam thập Tam thiên, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Một hôm, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna bay lên cõi trời Tam thập Tam thiên, gặp vị thiên nam có nhiều oai lực ấy, Ngài bèn hỏi rằng:

– Này vị thiên nam! Ngươi có lâu đài bằng ngọc maṇi cao 12 do tuần,có 700 phòng lớn, các cột toàn bằng ngọc bích quý, lót bằng tấm thảm lộng lẫy. Ngươi nhiều phép thần thông, có nhiều oai lực, các thiên nữ xinh đẹp  đờn ca múa hát quanh ngươi.

– Này vị thiên nam! Tiền kiếp của ngươi sinh cõi người đã làm phước thiện gì, nên kiếp hiện tại sinh làm thiên nam có nhiều oai lực, có ánh sáng hào quang tỏa khắp mọi phương hướng như vậy.

Nghe Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna hỏi như vậy, vị thiên nam vô cùng hoan hỷ bạch với Ngài về phước thiện và quả của phước thiện của mình rằng:

Kính bạch Ngài Đại Đức, tiền kiếp của con sinh làm người thấy một vị tỳ khưu đang đói đến đứng khất thực trước cổng nhà con, khi ấy, con vô cùng hoan hỷ đem phần ăn của con làm phước thiện bố thí cung kính cúng dường đặt bát đến vị tỳ khưu ấy.

Sau khi con chết, nhờ phước thiện bố thí cung kính cúng dường vật thực đến vị tỳ khưu ấy cho quả tái sinh lên cõi trời Tam thập Tam thiên này, con hưởng mọi sụ an lạc trong cõi trời, có hào quang sáng ngời tỏa ra mọi phương hướng như Ngài đã thấy.

Nghe vị thiên nam thưa như vậy, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna thuyết pháp tế độ vị thiên nam ấy cùng với nhóm thiên nữ của y, rồi trở về cõi người.

Phước Thiện Bố Thí Chỗ ở

Tich Ambavimāna ([6])

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, một cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi, nghe pháp rằng: “Phước thiện bố thí cúng dường chỗ ở có phước thiện vô lượng, có quả báu nhiều vô lượng, Acó quả vô lượng.” Người cận sự nữ phát sinh thiện tâm có đức tin trong sạch muốn cúng dường chỗ ở đến chư tỳ khưu Tăng, nên đến hầu Đức Thế Tôn bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con có nguyện vọng muốn xây dựng một ngôi chùa, để cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng. Kính xin Ngài chỉ chỗ cho con.

Nghe người cận sự nữ bạch như vậy, Đức Thế Tôn truyền bảo chư tỳ khưu chỉ chỗ thích hợp cho cận sự nữ ấy.

Được chư tỳ khưu chỉ chỗ, người cận sự nữ thuê thợ xây dựng một ngôi chùa rất xinh đẹp, rồi cho người trồng các cây xoài xung quanh ngôi chùa ấy.

Sau khi xây dựng ngôi chùa, trồng các cây xoài xung quanh chùa cho bóng mát và cho quả, người cận sự nữ cho người trang hoàng ngôi chùa rất lộng lẫy, lấy những tấm vải mới bao quanh các gốc cây xoài, làm nền sạch sẽ xung quanh ngôi chùa để chuẩn bị làm đại lễ phước thiện bố thí cúng dường ngôi chùa ấy.

Mọi công việc được chuẩn bị sẵn sàng, người cận sự nữ vô cùng hoan hỷ kính thỉnh chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, Thanh Văn đệ tử của Đức Phật đến để làm đại lễ phước thiện bố thí cúng dường ngôi chùa ấy một cách rất trọng thể đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương.

Sau khi làm đại lễ cúng dường ngôi chùa xong, người cận sự nữ vô cùng hoan hỷ đã thành tựu được nguyện vọng của mình.

Về sau, người cận sự nữ chết, phước thiện bố thí cúng dường ngôi chùa ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nữ trên cõi trời Tam thập Tam thiên, trong lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ, nằm giữa vườn xoài, có nhóm đông thiên nữ hầu hạ đờn ca múa hát. Vị thiên nữ có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời ấy.

Một hôm, Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna bay lên cõi trời Tam thập Tam thiên, gặp vị thiên nữ ấy, Ngài bèn hỏi rằng:

– Này thiên nữ! Vườn xoài trời của cô thật là ngoạn mục, trong vườn xoài có lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ, có các tiếng đàn phát ra réo rắt, từng đoàn thiên nữ ca hát nhảy múa. Trong lâu đài có ngọn đèn lớn bằng ngọc phát ra ánh sáng ngời, xung quanh lâu đài của cô có nhiều loại cây luôn luôn cho quả thơm ngon.

– Này thiên nữ! Tiền kiếp của cô sinh làm người, cô đã tạo phước thiện như thế nào mà nay kiếp hiện tại sinh làm vị thiên nữ có nhiều oai lực, có thân hình xinh đẹp  có đầy đủ mọi thứ quý giá, có hào quang sáng ngời tỏa ra khắp mọi phương hướng như vậy?

Nghe Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna hỏi như vậy, vị thiên nữ vô cùng hoan hỷ bạch với Ngài về phước thiện bố thí của mình như sau:

– Kính bạch Ngài Đại Đức, Khi tiền kiếp của con sinh

làm người trong cõi người, con có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cho xây dựng một ngôi chùa, có trồng các cây xoài xung quanh chùa .

Sau khi xây dựng xong ngôi chùa xong, để chuẩn bị khánh thành ngôi chùa, và làm đại lễ dâng cúng dường ngôi chùa đến chư tỳ khưu Tăng, con bảo mọi người lấy vải mới bao xung quanh các gốc cây xoài, đốt đèn sáng xung quanh chùa.

Con kính thỉnh chư Đại Đức tỳ khưu Tăng, Thanh Văn đệ tử của Đức Phật đến ngôi chùa, con tự tay làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng. Sau đó, con vô cùng hoan hỷ làm đại lễ phước thiện bố thí cúng dường ngôi chùa đến chư Đại Đức tỳ khưu Tăng tứ phương.

– Kính bạch Ngài Đại Đức, tiền kiếp của con đã tạo phước thiện bố thí như vậy, nên kiếp hiện tại này con có vườn xoài rất ngoạn mục, trong vườn xoài có lâu đài đồ sộ nguy nga tráng lệ, có các tiếng đàn phát ra réo rắt, từng đoàn thiên nữ ca hát nhảy múa.

Trong lâu đài có ngọn đèn lớn bằng ngọc phát ra ánh sáng ngời, xung quanh lâu đài có nhiều loại cây luôn luôn cho quả thơm ngon. Đó là quả báu của phước thiện bố thí ấy. Con có được sắc đẹp như thế này, có đầy đủ mọi sự an lạc như thế này cũng đều do quả của phước thiện ấy.

– Kính bạch Ngài Đại Đức, tiền kiếp của con ở cõi người đã tạo phước thiện bố thí như vậy, nên kiếp hiện tại này con là thiên nữ có nhiều oai lực, có ánh sáng hào quang tỏa ra khắp mọi phương hướng, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời Tam thập Tam thiên này.

Phước Thiện Bố Thí Cốc Lá

Tích Ngài Đại Đức Kuṭidāyakatthera-Apadāna

Ngài Đại Đức Kuṭidāyaka thuật lại chuyện tiền kiếp của Ngài làm phước thiện bố thí cúng dường cốc lá đến Đức Phật Vipassī được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Phật Vipassī ([7]) ngự vào trong rừng ngồi dưới cội cây. Khi ấy, tôi làm một cốc lá xong, rồi làm lễ cúng dường cốc lá ấy đến Đức Phật Vipassī.

Thời kỳ Đức Phật Vipassī trong kiếp trái đất thứ 91, kể từ kiếp trái đất này, do năng lực phước thiện bố thí cúng dường cốc lá ấy đến Đức Phật Vipassī, mà những tiền kiếp tử sinh luân hồi của tôi không hề sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh; chính nhờ thiện nghiệp ấy chỉ cho quả tái sinh trong các cõi thiện giới: cõi người và các cõi trời mà thôi.

Trong kiếp trái đất thứ 38, kể từ kiếp trái đất này, tôi làm Đức Vua Chuyển Luân Thánh Vương 16 lần có danh hiệu là Sabbattha Abhivassī.

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, tôi đã xuất gia trở thành tỳ khưu tên là Kuṭidāyaka thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với Tứ tuệ phân tích, Bát pháp giải thoát, Lục thông. Tôi đã thực hành đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật. Tôi đã hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Phước Thiện Bố Thí Thuốc Trị Bệnh

 Tích Ngài Đại Đức Bākula ([8])

Ngài Đại Đức có tên Bākula bởi Ngài trưởng thành trong 2 gia đình phú hộ. Tích này được bắt nguồn như sau:

Trong thời quá khứ, tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula sinh trong gia đình Bà-la-môn, trước khi Đức Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian. Khi trưởng thành, Ngài theo học các bộ môn truyền thống Bà-la-môn, nhưng Ngài nhận xét thấy không có lợi ích gì trong những bộ môn ấy, nên Ngài từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định, dẫn đến chứng đắc 8 bậc thiền sắc giới và vô sắc giới, và chứng đắc 5 phép thần thông thế gian.

Về sau, nghe tin Đức Phật Anomadassī ([9]) đã xuất hiện trên thế gian, đạo sĩ tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula đến hầu đảnh lễ Đức Phật Anomadassī, rồi nghe Ngài thuyết pháp, sau khi nghe pháp xong, đạo sĩ vô cùng hoan hỷ xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, cho đến trọn đời trọn kiếp, nhưng vẫn giữ hình thức đạo sĩ của mình. Ngài vẫn thường đến nghe Đức Phật thuyết pháp.

 Dâng Thuốc Trị Bệnh Đến Đức Phật Anomadassī

Một thuở nọ, Đức Phật Anomadassī bị lâm bệnh phong (gió) trong bụng, khi ấy, vị đạo sĩ đến hầu Đức Phật, gặp vị tỳ khưu cho biết Đức Phật bị lâm bệnh gió trong bụng, nên Ngài nghĩ rằng: “Đây là cơ hội tốt cho ta làm phước thiện bố thí thuốc trị bệnh đến Đức Phật.”

Đạo sĩ bay đến sườn núi tìm những cây thuốc đem về dâng vị tỳ khưu thường phụng sự Đức Phật, Ngài dặn dò vị tỳ khưu cách nấu thuốc như vậy, rồi kính dâng đến Đức Phật dùng thuốc này, hy vọng sẽ khỏi bệnh.

Thật vậy, sau khi dùng thuốc của vị đạo sĩ, Đức Phật khỏi bệnh gió trong bụng, sức khỏe trở lại bình thường. Khi ấy, vị đạo sĩ đến hầu đảnh lễ Đức Phật Anomadassī, ngồi một nơi hợp lẽ, rồi bạch rằng:

– Kính bạch Đức Thế Tôn, con đã làm phước thiện bố thí cúng dường thuốc trị bệnh đến Đức Thế Tôn khỏi bệnh. Do nhờ phước thiện bố thí cúng dường thuốc trị bệnh này, cầu mong cho con là người ít bệnh hoạn ốm đau suốt trong mọi kiếp còn tử sinh luân hồi.

Vị đạo sĩ sau khi chết, vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trong cõi trời vô sắc giới.

Sau khi hết tuổi thọ của cõi trời vô sắc giới, tử sinh luân hồi trong cõi người và các cõi trời trải qua suốt 1 a-tăng-kỳ.

Phát Nguyện Trở Thành Tỳ Khưu Ít Bệnh Nhất

Đến thời kỳ Đức Phật Padumuttara ([10]) xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula sinh trong một gia đình tại kinh thành Haṃsavatī. Ngài đến hầu đảnh lễ, lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Khi ấy, thấy Đức Phật tuyên dương một tỳ khưu có ít bệnh nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ngài, nên tiền kiếp của Ngài Đại Đức phát nguyện muốn trở thành vị tỳ khưu có ít bệnh nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong thời kỳ vị lai, và được Đức Phật Padumuttara thọ ký xác định thời gian trong thời kỳ Đức Phật Gotama.

Sau khi được thọ ký, những tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula tử sinh luân hồi trong các cõi trời và cõi người, cố gắng tinh tấn không ngừng tạo các pháp hạnh Ba-la-mật cho sớm được đầy đủ.

Trước khi Đức Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp Ngài Đại Đức Bākula sinh trong gia đình Bà-la-môn trong kinh thành Bandhumatī. Khi trưởng thành, Ngài từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ trú tại chân núi, thực hành pháp hành thiền định, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới và các phép thần thông thế gian.

Khi ấy, Đức Phật Vipassī ([11])đã xuất hiện trên thế gian, Đức Phật ngự cùng với nhóm 6.800.000 vị Đại Đức tỳ khưu Tăng đến kinh thành Bandhumatī, để tế độ Đức Phụ Vương của Ngài. Đức Phật ngự tại vườn phóng sinh nai Khema cùng với chư Đại Đức tỳ khưu Tăng.

Nghe tin Đức Phật Vipassī đã xuất hiện trên thế gian, Ngài đang ngự tại vườn phóng sinh nai Khema, vị đạo sĩ tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula đến hầu đảnh lễ Đức Phật Vipassī, nghe Ngài thuyết pháp, rồi xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, nhưng vẫn giữ hình thức đạo sĩ của mình. Vị đạo sĩ thường đến hầu đảnh lễ Đức Phật, nghe pháp.

Dâng Thuốc Trị Bệnh Đến Chư Tỳ khưu Tăng

Một thời nọ, ngoài Đức Phật Vipassī và 2 Ngài Tối thượng Thanh văn ra, còn lại tất cả chư Đại Đức tỳ khưu Tăng đều bị mắc bệnh nhức đầu, bởi vì hít mùi hoa độc của những cây trong rừng núi Himavanta đang nở rộ.

Khi ấy, đạo sĩ tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula đến hầu đảnh lễ Đức Phật Vipassī, biết chư tỳ khưu bị mắc bệnh đau đầu như vậy, nên nghĩ rằng: “Đây là cơ hội tốt của ta làm phước thiện bố thí thuốc trị bệnh đến chư tỳ khưu Tăng.”

Đạo sĩ dùng oai lực phép thần thông bay đi tìm các thứ cây thuốc đem về làm thành thuốc, rồi đem đến làm phước thiện bố thí cúng dường thuốc trị bệnh đến chư tỳ khưu Tăng. Sau khi dùng thuốc, tất cả chư tỳ khưu Tăng đều khỏi bệnh ngay.

Đạo sĩ tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới. Khi hết tuổi thọ trên cõi sắc giới, thiện nghiệp cho quả tái sinh trong các cõi trời, cõi người trải qua 91 đại kiếp trái đất.

Đến thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, khi ấy, tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula là người dân sinh sống trong căn nhà cũ tại kinh thành Bārāṇasī.

Một hôm, ông nghĩ rằng: “Căn nhà của ta đã cũ, bị hư hỏng không ở được nữa. Vậy, ta nên gọi nhóm thợ cùng ta đi vào rừng sâu tìm cây gỗ, lá, v.v… đem về làm lại căn nhà mới.”

Sau khi nghĩ như vậy, ông dẫn nhóm thợ vào rừng, trên đường đi, ông nhìn thấy ngôi chánh điện Sīmā nơi hành các tăng sự Saṃghakamma của chư tỳ khưu Tăng đã bị hư hỏng, dột nát, và các chỗ ở của chư tỳ khưu Tăng cũng bị hư hỏng nhiều, nên ông nghĩ rằng: “ Việc làm căn nhà mới của ta chưa cần thiết, bởi vì căn nhà không thể đi theo ta được, mà chỉ có phước thiện mới có thể theo ta được mà thôi. Vậy, ta nên trùng tu lại ngôi chánh điện Sīmā, và các chỗ ở, nhà ăn,… để cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng trước.”

Ông dẫn nhóm thợ vào rừng sâu tìm cây gỗ, lá, v.v… đem về trùng tu lại ngôi chánh điện Sīmā, nhà ăn, các chỗ ở của chư tỳ khưu, nhà xông hơi cho tỳ khưu bệnh, đặc biệt nhà thương dành cho những tỳ khưu bệnh, và chuẩn bị các thứ thuốc trị bệnh dành cho chư tỳ khưu bệnh, các nhà vệ sinh, v.v… Sau khi xây dựng xong, ông làm đại lễ bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng trong thời kỳ Đức Phật Kassapa.

Tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula cố gắng tinh tấn tạo 10 pháp hạnh Ba-la-mật sớm được đầy đủ cho đến trọn đời, cho nên, thiện nghiệp cho quả tái sinh trong các cõi trời, cõi người, trải qua khoảng thời gian từ Đức Phật Kassapa đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thời gian.

Kiếp Chót Của Ngài Đại Đức Bākula

Tiền kiếp của Ngài Đại Đức Bākula sau khi chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp chót đầu thai vào lòng bà vợ ông phú hộ tại kinh thành Kosambī, trước thời kỳ Đức Phật Gotama chưa xuất hiện trên thế gian.

Từ khi đầu thai vào lòng mẹ suốt 10 tháng, gia đình phú hộ phát sinh của cải quý báu nhiều vô kể, được Đức Vua ban thưởng tước cao quý.

Tròn đủ 10 tháng, Ngài sinh ra đời, người mẹ của Ngài nghĩ rằng: “Công tử của ta là một đứa con có phước lớn, ta muốn con của ta được khỏe mạnh, không có bệnh, được sống lâu. Vậy, ta nên bảo các nhũ mẫu ẵm con của ta đem xuống sông Yamunā làm lễ tắm gội đầu trong ngày sinh này ([12]) thì sau này con của ta được khỏe mạnh, không có bệnh, được sống lâu.”

Khi các bà nhũ mẫu ẵm đứa trẻ sơ sinh xuống sông Yamunā đang làm lễ tắm gội đầu đứa trẻ, thì ngay khi ấy, một con cá lớn nhìn thấy đứa trẻ ấy, tưởng là miếng mồi, nó há mồm ra ngậm đứa trẻ nuốt vào bụng bơi đi nơi khác, mà các bà nhũ mẫu không sao cứu được. Đứa trẻ là bậc đại phước kiếp chót của Ngài, nên dù nằm trong bụng con cá cũng như nằm trong phòng ngủ sang trọng, không cảm thấy khổ chút nào cả.

Do oai lực của pháp hạnh Ba-la-mật kiếp chót của đứa trẻ, nên con cá như nuốt phải một vật nóng, làm cho nó nóng nảy bơi mau như điên suốt 30 do tuần, rồi bị dính lưới của nhóm dân chài trong kinh thành Bārāṇasī.

Thông thường, con cá lớn như thế này khi mắc lưới thì chết ngay, nhưng do oai lực phước thiện của đứa trẻ, con cá vẫn còn sống cho đến khi bắt ra khỏi lưới. Những người dân chài cột dây khiêng con cá đi quanh kinh thành Bārāṇasī, để bán với giá kahāpaṇa chừng ấy, nhưng không có một ai mua cả.

Khi khiêng con cá đến trước cửa nhà phú hộ có của cải đến 800 triệu trong kinh thành Bārāṇasī, bà phú hộ hỏi họ rằng:

– Này các ngươi bán con cá ấy bao nhiêu Kahāpaṇa?

Những người dân chài thưa rằng:

– Kính thưa Bà, xin Bà cho chừng ấy Kahāpaṇa.

Bà phú hộ trao chừng ấy Kahāpaṇa cho những người dân chài, rồi nhận con cá.

Hằng ngày, bà phú hộ không bao giờ tự tay làm cá, hoặc làm đồ ăn, nhưng hôm ấy, bà phú hộ đặt con cá trên tấm ván lớn, rồi tự tay mình làm thịt con cá này. Thông thường, người ta mổ cá trước bụng, nhưng bà phú hộ mổ con cá này ở phía sau, khi dở lên bà nhìn thấy đứa trẻ có màu da như màu vàng ròng nằm trong bụng con cá, bà phú hộ reo lên rằng: “Ta được đứa trẻ trong bụng con cá.” Bà phú hộ ẵm đứa trẻ đến trình ông phú hộ. Gia đình phú hộ vốn không có con, nay bỗng dưng được đứa trẻ có nét mặt sáng sủa, màu da như màu vàng ròng, nên ông vô cùng sung sướng bảo gia nhân đánh chuông thông báo cho mọi người biết như vậy.

Ông bà phu hộ ẵm đứa trẻ lên xe đi vào cung điện chầu Đức Vua Bārāṇasī tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng Thượng, vợ chồng tiện dân được đứa trẻ trong bụng con cá. Vậy, nay vợ chồng tiện dân phải làm thế nào?

Đức Vua truyền bảo rằng:

– Này ông bà phú hộ! Đứa trẻ này có phước lớn, dù nó nằm trong bụng con cá, mà sinh mạng vẫn được an toàn. Vậy, hai ông bà phú hộ nên nuôi dưỡng đứa trẻ này.

Đứa Trẻ Tên Là Bākula

Gia đình ông bà phú hộ là cha mẹ của đứa trẻ ở kinh thành Kosambī nghe tin gia đình ông bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī được một đứa trẻ trong bụng con cá. Bà phú hộ là mẹ đẻ của đứa trẻ cùng nhóm gia nhân đi xe lên đường đến kinh thành Bārāṇasī, tìm đến nhà gia đình phú hộ kinh thành Kosambī.

Nhìn thấy bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī đang chơi đùa với đứa trẻ, bà phú hộ kinh thành Kosambī khen ngợi

đứa trẻ rằng: “Đứa trẻ thật là đáng yêu quý quá!”

Khi ấy, bà phú hộ kinh thành Kosambī mẹ sinh thưa với bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī rằng:

– Thưa bà, đứa trẻ này là con của tôi.

Bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī mẹ nuôi thưa rằng:

– Thưa bà, đứa trẻ này là con của tôi, không phải con

      của bà đâu!

(Mẹ sinh)     – Thưa bà, bà được đứa trẻ này từ đâu?

(Mẹ dưỡng) – Thưa bà, tôi được đứa trẻ này từ trong bụng      con cá.

(Mẹ sinh)   – Thưa bà, nếu như vậy, thì chắc chắn đứa trẻ này không phải là con của bà, nó chắc chắn là con của tôi rồi!

(Mẹ dưỡng) – Thưa bà, con của bà ở đâu?

(Mẹ sinh)   – Thưa bà, tôi mang thai 10 tháng, khi đứa trẻ này sinh ra được đem xuống sông Yamunā để làm lễ tắm gội đầu, thì con cá há mồm ra ngậm đứa trẻ nuốt vào bụng bơi đi mất.

(Mẹ dưỡng) – Thưa bà, con của bà bị con cá khác nuốt bơi đi nơi khác rồi, còn đứa trẻ này trong bụng con cá của tôi mua.

Như vậy, bà phú hộ kinh thành Kosambī là mẹ sinh và bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī là mẹ dưỡng tranh chấp với nhau về đứa trẻ, không rõ thuộc về bên nào nên hai người mẹ ẵm đứa trẻ cùng nhau đến chầu Đức Vua Bārāṇasī để Đức Vua phán xét.

Đức Vua phán xét rằng:

“Bà phú hộ kinh thành Kosambī mang thai 10 tháng sinh ra đứa trẻ này, bà không phải là mẹ sinh thì không thể được; và bà phú hộ kinh thành Bārāṇasī đã mua con cá, thì tất cả những thứ gì trong con cá đều thuộc quyền sở hữu của bà, cho nên, đứa trẻ nằm trong bụng con cá thuộc về của bà, bà không phải là mẹ dưỡng thì cũng không thể được. Vì vậy, đứa trẻ này là người thừa kế (dāyāda) của 2 gia đình phú hộ. Kể từ đó, đứa trẻ này là thuộc về của 2 gia đình phú hộ, nó là đứa con thừa kế của 2 gia đình, nên đặt tên là Bākulakumāra: Công tử

Bākula” (Bākula nghĩa là 2 gia đình, 2 dòng họ).

 Công tử Bākula Của Hai Gia Đình Phú Hộ

Khi công tử Bākula trưởng thành hưởng mọi sự an lạc trong 2 gia đình phú hộ tại kinh thành Bārāṇasī và kinh thành Kosambī. Mỗi gia đình phú hộ xây dựng 3 tòa lâu đài gồm có đầy đủ mọi thứ để hưởng mọi sự an lạc trong đời, như các đoàn ca hát, nhảy múa, những món ngon vật lạ, những xe cộ đi du ngoạn ngắm cảnh, v.v…

Công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong mỗi gia đình phú hộ của mỗi kinh thành 4 tháng. (2 tháng tại kinh thành và 2 tháng trên chiếc thuyền).

Thật vậy, công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong gia đình phú hộ tại kinh thành bên này suốt 2 tháng, rồi bước xuống chiếc thuyền lớn có đầy đủ mọi thứ như các đoàn ca hát, nhảy múa, các món ăn vật lạ, v.v…., để cho công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong đời. Chiếc thuyền lớn duy chuyển từ kinh thành này đến nửa đường thời gian 2 tháng đến chỗ hẹn trên dòng sông.

Một chiếc thuyền lớn của gia đình phú hộ kinh thành bên kia chờ nửa đường chỗ hẹn trên dòng sông, để đón rước công tử Bākula bước sang chiếc thuyền lớn bên kia cũng có đầy đủ mọi thứ trên chiếc thuyền, để cho công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong đời. Chiếc thuyền lớn duy chuyển suốt 2 tháng mới đến kinh thành bên kia, rồi công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong gia đình phú hộ tại kinh thành bên kia suốt 2 tháng.

Như vậy, công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong đời mỗi gia đình phú hộ tại mỗi kinh thành có 2 tháng, còn 2 tháng hưởng mọi sự an lạc trên chiếc thuyền lớn đến nửa đường chỗ hẹn trên dòng sông.

Công tử Bākula hưởng mọi sự an lạc trong mỗi gia đình phú hộ của mỗi kinh thành luân phiên nhau như vậy, suốt thời gian tròn 80 năm.

Công Tử Bākula Trở Thành Tỳ Khưu

Công tử Bākula sống tại gia suốt thời gian tròn 80 năm. Vào thời ấy, Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, Ngài ngự đi đến kinh thành Kosambī (hoặc kinh thành Bārāṇasī). Khi ấy, nghe tin Đức Phật Gotama ngự đến kinh thành Kosambī, công tử Bākula là Thanh Văn đệ tử kiếp chót đi đến hầu đảnh lễ, cúng dường những phẩm vật đến Đức Phật, rồi lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Công tử Bākula phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Sau khi trở thành tỳ khưu trong 7 ngày, Ngài vẫn còn

là tỳ khưu phàm nhân, nhưng đến sáng sớm ngày thứ 8, Ngài thực hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với tứ tuệ phân tích (catu-paṭisambhidā) trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Sau khi công tử Bākula đã xuất gia trở thành tỳ khưu, rồi trở thành bậc Thánh A-ra-hán. Khi ấy, tất cả các người bạn thân, các đoàn ca hát, nhảy múa, các nhạc công, các nhóm tùy tùng thuộc hạ là những người trong kinh thành Bārāṇasī và kinh thành Kosambī của công tử Bākula khi còn sống tại gia, mỗi người đều nhận được nhiều của cải đem về sinh sống trong gia đình của mình.

Khi sống trong gia đình, họ thường nhớ đến ân đức của Ngài Đại Đức Bākula, nên họ dệt, may thành bộ y, rồi đem kính dâng đến Ngài Đại Đức Bākula.

Hằng nửa tháng trước, người thân trong kinh thành Kosambī dâng một bộ y đến Ngài Đại Đức Bākula, rồi nửa tháng sau, người thân trong kinh thành Bārāṇasī dâng một bộ y đến Ngài Đại Đức Bākula, cứ thay phiên với nhau dâng bộ y như vậy.

Ngoài ra, các thứ vật dụng khác cũng thường thay phiên với nhau dâng cúng dường đến Ngài Đại Đức Bākula như vậy, cho nên, tứ vật dụng của Ngài nhiều vô kể. Ngài thường cho người đem làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu khác.

Tuyên Dương Ngài Đại Đức Bākula Ít Bệnh Đệ Nhất

Khi còn sống tại gia suốt 80 năm tròn, công tử Bākula

không hề bị bệnh hoạn, ốm đau gì cả, dù chỉ là sổ mũi

cũng không từng phát sinh lên đối với Ngài.

Từ khi xuất gia trở thành tỳ khưu lúc 80 tuổi, rồi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Ngài Đại Đức Bākula cũng không hề có bệnh hoạn, ốm đau gì cả, và 4 thứ vật dụng luôn luôn phát sinh đầy đủ đối với Ngài.

Một hôm, ngự tại ngôi chùa Jetavana giữa chư Đại Đức Thánh Tăng, Đức Thế Tôn tuyên dương ca tụng Ngài Đại Đức Bākula rằng:

“Etadaggaṃ Bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhik-khūnaṃ appābādhānaṃ yadidaṃ Bākulo”

– Này chư tỳ khưu! Trong các hàng tỳ khưu Thanh Văn đệ tử của Như Lai, Bākula là vị tỳ khưu có ít bệnh đệ nhất.

Ngài Đại Đức Bākula Tịch Diệt Niết Bàn

Ngài Đại Đức Bākula khi còn là công tử Bākula sống tại gia hưởng mọi sự an lạc trong đời suốt 80 năm tròn, không hề có thứ bệnh gì, dù chỉ là bệnh sổ mũi thôi. Và khi công tử Bākula xuất gia lúc 80 tuổi, trở thành tỳ khưu được 7 ngày, đến sáng ngày thứ 8, tỳ khưu Bākula trở thành bậc Thánh A-ra-hán có 80 hạ. Trong suốt 80 năm, Ngài cũng không hề có thứ bệnh nào cả.

Đó là quả báu của phước thiện bố thí thuốc trị bệnh của Ngài trong thời kỳ Đức Phật Anomadassī, và Ngài phát nguyện muốn trở thành vị tỳ khưu ít bệnh nhất cũng được thành tựu, đúng như Đức Phật Padumuttara quá khứ đã thọ ký.

Công tử Bākula sống 80 tuổi tại gia và xuất gia trở thành Tỳ khưu có 80 tuổi hạ gồm có 160 tuổi tròn. Một hôm, Ngài Đại Đức Bākula thưa  với  chư Đại Đức tỳ khưu Tăng rằng: “Hôm nay, tôi sẽ tịch diệt Niết Bàn.”

Để chư tỳ khưu không phải lo công việc hỏa táng thân xác của Ngài sau khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, nên ngồi kiết già giữa chư tỳ khưu Đại Đức Tăng, Ngài Đại Đức Bākula phát nguyện, rồi nhập thiền đề mục lửa, cuối lộ trình tâm, “cuti” tịch diệt Niết Bàn. Sau khi Ngài Đại Đức Bākula tịch diệt Niết Bàn, hỏa đại bốc lên thiêu đốt thân xác của Ngài, chỉ còn những viên Xá-lợi màu trắng như màu hoa lài mà thôi.

Chư tỳ khưu xây ngôi tháp tôn thờ Xá-lợi của Ngài Đại Đức Bākula.

Phước Thiện Bố Thí Cho Quả Hiện Tại

Phước thiện bố thídục giới thiện nghiệp nếu có cơ hội thì cho quả ngay hiện tại, cho quả tái sinh ngay kiếp sau kế tiếp và cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Phước thiện bố thí cho quả ngay hiện tại thì thí chủ phải hội đầy đủ 4 pháp Sampadā cần thiết.

Sampadā ([13])có 4 pháp là:

1- Paccayadhammika: Vật thí hợp pháp, đó là vật thí dù ít dù nhiều cũng được phát sinh một cách hợp pháp và hoàn toàn trong sạch, không làm khổ mình, không làm khổ chúng sinh khác.

2- Cetanāmahatta: Tác ý thiện tâm trong sạch có trong 3 thời pubbacetanā, muñcacetanā, aparacetanā đầy đủ và có nhiều năng lực.

3- Guṇātirekā: Bậc thọ thí có ân đức cao thượng đó là

Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc bậc Thánh A-ra-hán.

4- Vatthusampatti: bậc Thánh A-ra-hán vừa xả diệt thọ tưởng, rồi đi khất thực thọ nhận vật thí ấy của thí chủ.

Nếu thí chủ làm phước thiện bố thí hợp đầy đủ 4 pháp

như vậy thì chắc chắn phước thiện bố thí ấy sẽ cho quả ngay hiện tại không lâu.

Trong thời Đức Phật Gotama đang còn hiện hữu trên thế gian, có những thí chủ làm phước thiện bố thí liền được quả báu của phước thiện bố thí ngay hiện tại như sau:

Bà-la-môn Cūḷekasāṭaka, người bán hoa Sumana, ông bà làm thuê Puṇṇa, bà Mallikādevī, bà Gopāla-mātādevī, cô Suppiyā upāsikā, … là những thí chủ làm phước thiện bố thí liền được quả báu ngay ngày hôm ấy.

(Xem một số tích trong quyển “Tìm Hiểu Phước Thiện Bố Thí”)

Tác Ý Bố Thí (Cetanādāna)

Phước thiện bố thí có được phước thiện vô lượng, có được quả báu vô lượng do cetanā tác ý trong 3 thời: pubbacetanā, muñcacetanā, aparacetanā.

* Pubbacetanā: Tác ý thiện tâm hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí có thời gian lâu hoặc mau tùy theo thí chủ và công việc làm phước thiện bố thí.

* Muñcacetanā: Tác ý thiện tâm hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí (thời gian ngay khi ấy).

* Aparacetanā: Tác ý thiện tâm hoan hỷ sau khi làm phước thiện bố thí có thời gian không hạn định.

Trong 3 thời cetanā tác ý này, thời aparacetanā tác ý thiện tâm hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí xong rồi có thời gian không hạn định, mỗi khi thí chủ niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy, thì phước thiện bố thí lại phát sinh và tăng trưởng. Cho nên, trong 40 đề mục pháp hành thiền định, có đề mục Cāgānussati: Đề mục thiền định niệm phước thiện bố thí của mình.

Năng Lực Của Cetanā Trong 3 Thời Kỳ

Cetanā: Tác ý có 3 thời, tác ý trong mỗi thời có năng lực cho quả khác nhau như sau:

1- Pubbacetanā: Tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí.

* Nếu thí chủ có tác ý thiện tâm hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, thì khi thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt lành trong thời ấu niên, tùy theo năng lực của thiện nghiệp ấy.

* Nếu thí chủ có tác ý bất thiện tâm không hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí mà vẫn làm phước thiện bố thí, thì khi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trước khi làm phước thiện bố thí ấy có cơ hội cho quả xấu trong thời ấu niên, tùy theo năng lực của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy. Ví dụ:

Như tích Pañcapāpī ([14]) được tóm lược như sau:

Pañcapāpī là con gái của một gia đình nghèo khổ nhà ở gần cửa phía Đông trong kinh thành Bārāṇasī.

Sở dĩ người ta gọi cô là Pañcapāpī, bởi vì thân hình của cô có 5 bộ phận xấu là tay, chân, miệng, mắt, lỗ mũi.

Do nguyên nhân nào thân hình của cô có 5 bộ phận xấu như vậy?

Tiền kiếp của cô là con gái của gia đình nghèo khổ, chuyên nhồi đất cho nhuyễn để bán cho người ta trát vách nhà. Một hôm, Đức Phật Độc Giác cần đất nhuyễn để trát vách chỗ ở của Ngài, nên Ngài mặc y, mang bát ngự vào cửa thành phía Đông kinh thành Bārāṇasī, đến đứng trước nhà cô gái đang ngồi nhồi đất. Nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đứng trước nhà, cô gái phát sinh tâm sân bực mình nói rằng: “Mattikampi bhikkhati!” Đến đất mà cũng đi xin!

Dù cô nói với giọng bực bội như vậy, Đức Phật Độc Giác vẫn đứng tự nhiên, nên cô phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật Độc Giác, rồi bạch rằng:

– Kính bạch Ngài Sa-môn, Ngài muốn được đất nhuyễn phải không? Kính thỉnh Ngài đợi con một lát.

Phước Thiện Bố Thí Đất Nhuyễn Đặc Biệt

Bạch xong, cô hoan hỷ nhồi đất thật nhuyễn rất đặc biệt, rồi cô cung kính đem làm phước thiện bố thí cúng dường đất nhuyễn rất đặc biệt ấy, đặt trong bát của Đức Phật Độc Giác. Ngài đem về trát vách chỗ ở của Ngài.

Kiếp Sau Cô Gái Nghèo

Về sau, cô gái nghèo ấy chết, thiện nghiệp bố thí đất nhuyễn ấy cho quả tái sinh đầu thai vào lòng người đàn bà nghèo, nhà ở gần cửa thành Bārāṇasī. Khi trẻ sơ sinh ra đời, thân hình có 5 bộ phận xấu xí là tay, chân, miệng, mắt, lỗ mũi, người ta gọi cô là Pañcapāpī. Đó là do quả của tác ý bất thiện trước khi làm phước thiện bố thí cúng dường đất nhuyễn đặc biệt đến Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của cô.

Khi cô trưởng thành, hễ ai tiếp xúc, đụng đến thân thể của cô, đều có cảm giác như tiếp xúc với đối tượng xúc của cõi trời, cảm giác sung sướng say mê chưa từng có. Đó là quả báu của phước thiện bố thí cúng dường đất thật nhuyễn đặc biệt đến Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của cô.

Thật vậy, một đêm nọ Đức Vua Bārāṇasī tên là Baka giả dạng dân thường ngự đi xem xét dân chúng trong kinh thành, khi Đức Vua Baka đến chỗ cô Pañcapāpī đang chơi trò bắt nhau với các cô bạn gái trong xóm, vì không biết Đức Vua Baka, nên cô đưa tay bắt nhầm tay của Đức Vua. Khi bàn tay Đức Vua Baka tiếp xúc với bàn tay của cô Pañcapāpī, Đức Vua có cảm giác say mê không còn biết mình, như tiếp xúc với đối tượng xúc trên cõi trời, phát sinh tâm tham ái say mê trong đối tượng xúc ấy.

Đức Vua Baka đưa tay nắm lấy tay cô Pañcapāpī truyền hỏi rằng:

– Này cô em! Cô là con gái của ai? Đã có chồng hay chưa?

Nghe Đức Vua truyền hỏi như vậy, cô thưa rằng:

– Thưa ông, tôi là con gái của cha mẹ nhà nghèo ở gần cửa thành, chưa có chồng.

Đức Vua truyền bảo rằng:

– Này cô! Ta sẽ là người chồng của cô. Vậy, cô nên trở về xin phép cha mẹ.

Cô Pañcapāpī trở về thưa với cha mẹ rằng:

– Kính thưa cha mẹ, có một người đàn ông hỏi con, muốn lấy con làm vợ.

Nghe cô Pañcapāpī thưa như vậy, cha mẹ của cô nghĩ rằng: “Người đàn ông ấy chắc không phải là người nghèo khổ”, nên bảo rằng:

– Này con! Nếu người đàn ông ấy muốn lấy con làm vợ thì may mắn cho đời con biết dường nào!

Cô Pañcapāpī trở lại gặp Đức Vua Baka báo cho biết cha mẹ đã cho phép rồi. Ngay đêm hôm ấy, Đức Vua Baka sống chung với cô Pañcapāpī tại nhà cô, đến cuối canh chót đêm mới ngự trở về cung điện.

Từ đó về sau, mỗi đêm Đức Vua Baka thường giả dạng dân thường ngự đến gặp cô Pañcapāpī, không còn quan tâm đến Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng hậu và các thứ phi khác trong cung điện nữa.

Về sau, Đức Vua Baka bày ra mưu kế để rước cô Pañcapāpī vào cung điện, rồi tấn phong cô Pañcapāpī lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Baka trong kinh thành Bārāṇasī. Cha mẹ của cô Pañcapāpī cũng được Đức Vua ban cho nhiều của cải, nên cuộc sống được đầy đủ hạnh phúc an lạc.

Từ đó, Đức Vua Baka chỉ say mê đắm đuối với Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī mà thôi, bỏ bê việc triều chính, các quan tỏ ra thái độ bất bình.

Chánh Cung Hoàng Hậu Pañcapāpī Nằm Mộng

Một đêm nọ, Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī nằm mộng, qua giấc mộng ấy thấy mình sẽ là Chánh cung Hoàng hậu của 2 Đức Vua. Bà tâu giấc mộng lên Đức Vua Baka.

Đức Vua Baka truyền lệnh cho mời các vị thầy Bà-la-môn đoán mộng vào chầu, Đức Vua kể lại giấc mộng của Chánh cung Hoàng hậu.

Các vị thầy Bà-la-môn bị mua chuộc, nên đoán rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Chánh cung Hoàng hậu nằm mộng thấy ngồi trên cổ con bạch tượng. Đó là điều báo trước sự băng hà đến Đại Vương.

 – Muôn tâu Đại Vương, Chánh cung Hoàng hậu nằm

mộng thấy ngồi trên cổ con bạch tượng, rồi sờ tay lên mặt trăng vuốt ve chơi. Đó là điều báo trước sẽ đem Đức Vua kẻ thù đến Đại Vương.

Thuyền Chở Chánh Cung Hoàng Hậu Thả Trôi

Nghe vị thầy Bà-la-môn đoán mộng như vậy, Đức Vua Baka truyền hỏi rằng:

– Này các ngươi! Nếu như vậy thì Trẫm phải làm thế nào? Xin các ngươi tâu cho Trẫm rõ.

Các vị thầy Bà-la-môn tâu với Đức Vua Baka nên đưa Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī xuống chiếc thuyền, rồi thả trôi theo dòng nước.

Nghe theo lời tâu của vị thầy Bà-la-môn, Đức Vua Baka chuẩn tấu, đưa Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī xuống chiếc thuyền có đầy đủ các món vật thực, nước uống, các đồ trang sức quý giá của Bà.

Đến ban đêm, Đức Vua truyền lệnh thả chiếc thuyền trôi xuôi theo dòng nước trên con sông lớn.

Chiếc thuyền chở Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī trôi đến chỗ bến nước nơi Đức Vua Bāvarika đang ngự trên thuyền đi chơi trên sông. Nhìn thấy chiếc thuyền lạ từ xa trôi đến, Đức Vua Bāvarika truyền bảo rằng: “Người trên thuyền thuộc về của Trẫm.” Chiếc thuyền vừa đến gần, nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pañca-pāpī, Đức Vua Bāvarika truyền hỏi rằng:

– Này cô tên gì? Sao thân hình xấu xí đáng ghê vậy!

Nghe Đức Vua truyền hỏi như vậy, Cô Pañcapāpī cười, rồi tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng Thượng, tiện nữ là Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Baka ngự kinh thành Bārāṇasī, tên là Pañcapāpī.

Cô Pañcapāpī tâu trình mọi sự việc xảy ra, Đức Vua Bāvarika biết cô Pañcapāpī nổi tiếng khắp cõi Nam thiện bộ châu, nên Đức Vua Bāvarika đưa tay nắm tay của cô Pañcapāpī đưa lên chiếc thuyền rồng, vừa tiếp xúc bàn tay của cô Pañcapāpī, Đức Vua phát sinh tâm tham ái say mê đối tượng xúc trong thân cô như đối tượng xúc trên cõi trời, chưa từng có nơi người nữ nào như vậy.

Đức Vua Bāvarika đưa cô về cung điện, làm lễ tấn phong cô Pañcapāpī lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu.

Từ đó Đức Vua Bāvarika chỉ say mê Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī mà thôi, không còn quan tâm đến Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng hậu, các thứ phi nào khác nữa.

Cô Pañcapāpī Là Chánh Cung Hoàng Hậu Của 2 Đức Vua

Hay tin Đức Vua Bāvarika tấn phong cô Pañcapāpī lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu, nên Đức Vua Baka nổi cơn ghen tức nghĩ rằng: “Ta sẽ không chịu để Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī của ta trở thành Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Bāvarika được.”

Đức Vua Baka kinh thành Bārāṇasī thân chinh dẫn đầu các đoàn binh tiến quân đến đóng quân bên bờ sông, rồi gửi tối hậu thư đến Đức Vua Bāvarika rằng:

“Đức Vua Bāvarika hãy trả Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī lại cho bổn vương hoặc chiến tranh”

Đức Vua Bāvarika phúc đáp rằng:

“Bổn vương chấp nhận chiến tranh, chứ không bao giờ chịu giao Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī.”

Như vậy, cuộc chiến tranh sẽ xảy ra giữa Đức Vua Bāvarika với Đức Vua Baka. Khi ấy, các vị quan của 2 nước hội họp, để bàn thảo với nhau rằng: “Nếu có cuộc chiến xảy ra thì ắt gây chết chóc đau khổ, chỉ vì nguyên nhân một người đàn bà. Đó là điều không hợp lý chút nào cả. Vậy, cô Pañcapāpī nên thuộc về Đức Vua Baka, vì đã từng là phu quân của cô, và cô Pañcapāpī cũng nên thuộc về Đức Vua Bāvarika, vì được từ trên chiếc thuyền trôi dạt đến địa phận của Đức Vua. Cho nên, cô Pañcapāpī nên trở thành Chánh cung Hoàng hậu của cả 2 Đức Vua là Đức Vua Baka và Đức Vua Bāvarika.”

Sau khi bàn thảo xong, mỗi nhóm quan trở về tâu trình lên Đức Vua của mình, hai Đức Vua cũng đều chuẩn tấu như vậy.

Mỗi Đức Vua đều xây dựng một cung điện tại 2 bên bờ sông, Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī sống chung với Đức Vua Bāvarika 7 ngày xong, rồi lên chiếc thuyền rồng sang sống chung với Đức Vua Baka. Cứ như vậy, mỗi Đức Vua sống chung với Chánh cung Hoàng hậu Pañcapāpī 7 ngày. Cho nên cô Pañcapāpī trở thành Chánh cung Hoàng hậu của 2 Đức Vua.

Tích Kusajātaka được tóm lược những điểm chính như sau:  

Trong tích Kusajātaka ([15]) này Đức Bồ Tát Kusa tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Vua ngự tại kinh thành Kusāvatī trị vì đất nước Malla. Đức Vua Bồ Tát Kusa có oai lực phi thường, có giọng nói như sư tử rống, nhưng có thân hình và gương mặt rất xấu xí đáng ghê sợ. (Đó là quả của tác ý bất thiện trước khi làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.)

Đức Bồ Tát Kusa là Thái tử của Đức Vua Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī. Đức Bồ Tát Thái tử

Kusa còn có Hoàng đệ là Jayampati.

Khi Đức Bồ Tát Thái tử Kusa trưởng thành năm 16 tuổi, Đức Phụ Vương và Mẫu hậu muốn truyền ngôi báu cho Đức Bồ Tát Thái tử Kusa lên ngôi làm vua, ngự tại kinh thành Kusāvatī, trị vì đất nước Malla, nhưng Đức Bồ Tát Thái tử Kusa không muốn lên ngôi vua, bởi vì nghĩ rằng: “Ta có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ như thế này, các công chúa chê cười ta thì đáng xấu hổ lắm. Do đó không muốn ngôi vua, và không muốn thành hôn với công chúa nào, mà muốn sống như vậy, để phụng dưỡng Đức Phụ Vương và Mẫu hậu cho đến khi hai Người băng hà, ta sẽ từ bỏ cung điện, ngự đi vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi ấy.

Tượng Hình Công Chúa Xinh Đẹp Bằng Vàng Ròng

Dù đã nhiều lần từ khước lời tha thiết khẩn khoản của

Đức Phụ Vương và Mẫu hậu vẫn không được, nên Đức Bồ Tát Thái tử Kusa bày ra kế tự mình khắc một tượng hình một công chúa xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ bằng vàng ròng. Nếu có được công chúa xinh đẹp giống như vậy thì mới chịu lên ngôi vua và làm lễ thành hôn với công chúa ấy.

Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī truyền lệnh các quan làm sứ giả chở tượng hình ấy trên xe đi tìm khắp các nước trong cõi Nam thiện bộ châu này, nếu có công chúa của Đức Vua nào xinh đẹp như tượng hình này thì dâng tượng hình bằng vàng ròng này đến Đức Vua ấy gọi là đồ sính lễ đám hỏi.

Công Chúa Pabhāvatī Xinh Đẹp Tuyệt Trần

Đức Vua Madda ngự tại kinh thành Sāgala trị vì đất

nước Madda, Đức Vua có 8 công chúa, Công chúa đầu lòng tên Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần như thiên nữ, đặc biệt có ánh sáng tỏa ra từ thân hình như ánh sáng mặt trời mát dịu suốt ngày đêm xung quanh rộng 4 cùi tay, nên ban đêm trong phòng không cần dùng đèn mà vẫn sáng như ban ngày. (Đó là quả báu của phước thiện bố thí bơ lỏng trong sạch đến Đức Phật Độc Giác.)

Các quan sứ giả của Đức Vua Okkāka đến kinh thành Sāgala nghe tin Đức Vua Madda có Công chúa đầu lòng tên Pabhāvatī rất xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ, nên xin phép vào chầu đảnh lễ Đức Vua Madda, tâu rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Đức Vua Okkāka của chúng thần ngự tại kinh thành Kusāvatī, trị vì đất nước Malla, có ý định truyền ngôi báu cho Thái tử Kusa có oai lực phi thường, có giọng nói như sư tử rống, nên gửi chúng thần đến chầu Đại Vương, xin Đại Vương ban Công chúa Pabhāvatī cho Thái tử Kusa, để làm Chánh cung Hoàng hậu.

– Muôn tâu Đại Vương, kính xin Đại Vương nhận tượng hình Công chúa bằng vàng ròng cùng các phẩm vật quý báu này.

Nghe các sứ giả tâu như vậy, Đức Vua Madda vô cùng hoan hỷ thọ nhận lễ vật ấy, bởi vì Công chúa của Đức Vua sẽ trở thành Chánh cung Hoàng hậu của một đất nước lớn có nhiều thế lực trong cõi Nam thiện bộ châu.

Sau đó, các sứ giả đảnh lễ Đức Vua Madda, rồi xin phép bái biệt, vội trở về kinh thành Kusāvatī.

Khi về đến kinh thành Kusāvatī, các quan đến chầu Đức Vua Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī tâu trình rõ mọi điều.

Đức Vua Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī vô cùng hoan hỷ ban thưởng các quan, rồi truyền lệnh làm lễ đón rước Công chúa Pabhāvatī.

Đức Vua Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī ngồi trên voi báu dẫn đầu đoàn tùy tùng hộ giá đông đảo, ngự ra khỏi kinh thành Kusāvatī lên đường đi đến kinh thành Sāgala.

Đức Vua Madda ngự cùng các quan ra tận bên ngoài kinh thành để đón rước Đức Vua Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī cùng đoàn hộ giá ngự vào kinh thành Sāgala, thỉnh mời vào cung điện tiếp đãi rất long trọng.

Đức Vua Okkāka và Đức Vua Madda rất hài lòng mối giao hảo giữa hai nước với nhau.

Qua 2- 3 ngày sau, Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī tâu với Đức Vua Madda rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, xin Đại Vương cho phép bổn thiếp gặp Công chúa Pabhāvatī, con dâu tương lai.

Đức Vua Madda đáp rằng:

– Tâu Chánh cung Hoàng hậu, hay lắm!

Đức Vua Madda truyền bảo các quan mời Công chúa

Pabhāvatī ra mắt Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī.

Công chúa Pabhāvatī trang điểm các thứ nữ trang quý giá vô cùng lộng lẫy ngự ra cùng với đàn thị nữ theo hầu đến cung kính đảnh lễ dưới hai bàn chân của Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī, Mẫu hậu tương lai.

Nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ, nên Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī nghĩ rằng: “Công chúa Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần đến như thế này, còn Thái tử Kusa của ta có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ đến như thế kia. Nếu công chúa nhìn thấy Thái tử Kusa của ta thì chắc chắn phát sinh tâm kinh sợ, dù trong chốc lát cũng không thể sống chung với nhau được, chắc chắn Công chúa Pabhāvatī sẽ bỏ Thái tử trở lại kinh thành Sāgala liền. Vậy, ta nên bày ra diệu kế vậy.”

Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī truyền thỉnh Đức Vua Madda đến, Bà tâu rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần thật là xứng đáng với Thái tử Kusa của bổn Thiếp, nhưng trong hoàng gia của bổn Thiếp có một truyền thống, nếu Công chúa thực hành theo truyền thống ấy được thì bổn Thiếp xin đón rước Công chúa ngự trở về kinh thành Kusāvatī.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī tâu như vậy, Đức Vua Madda truyền hỏi rằng:

Tâu Chánh cung Hoàng hậu, trong hoàng gia của Bà có truyền thống như thế nào?

Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī tâu rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, trong hoàng gia của bổn Thiếp có một truyền thống là “Chánh cung Hoàng hậu không gặp mặt Đức Vua lúc ban ngày cho đến khi mang thai mới gặp được.” Nếu Công chúa Pabhāvatī thực hành theo truyền thống này được thì bổn Thiếp xin đón rước về kinh thành Kusāvatī, trong đại lễ đăng quang Thái tử Kusa lên ngôi Vua, đồng thời sẽ làm lễ tấn phong Công chúa Pabhāvatī lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Kusa.

Nghe tâu như vậy, Đức Vua Madda truyền hỏi Công chúa Pabhāvatī rằng:

– Này con yêu quý! Con có thể thực hành theo truyền thống ấy được hay không?

Công chúa Pabhāvatī tâu rằng:

– Muôn tâu Đức Phụ Vương, con có thể thực hành theo truyền thống ấy được.

Khi ấy, Đức Vua Okkāka làm lễ ban nhiều phẩm vật quý báu của hoàng gia đến Đức Vua Madda, rồi Đức Vua Okkāka làm lễ đón rước Công chúa Pabhāvatī, ngự trở về kinh thành Kusāvatī. Đức Vua Madda cùng đoàn tùy tùng đông đảo theo tiễn đưa Công chúa Pabhāvatī một đoạn đường xa.

Công Chúa Pabhāvatī Trở Thành Chánh Cung Hoàng Hậu Của Đức Vua Bồ Tát Kusa

Khi ngự trở về đến kinh thành Kusāvatī, Đức Vua Okkāka truyền lệnh trang hoàng kinh thành thật lộng lẫy, rồi tổ chức đại lễ đăng quang cho Thái tử Kusa lên ngôi vua, và tấn phong Công chúa Pabhāvatī lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Kusa. (Lời phát nguyện của tiền kiếp Đức Vua Bồ Tát Kusa được thành tựu như ý.)

Đức Thái Thượng Hoàng Okkāka truyền lệnh cho các quan thông báo các Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu rằng: “Nay toàn đất nước Malla là của Đức Vua Kusa, Đức Vua nào có Công chúa, thì hãy dâng Công chúa đến Đức Vua Kusa, có Thái tử, hoàng tử thì hãy đến xin phục vụ kết tình thân thiện với Đức Vua Kusa.” Cho nên, Đức Vua Bồ Tát Kusa có nhiều Công chúa đến hầu hạ, có nhiều Thái tử, hoàng tử là thuộc hạ.

Đức Vua Bồ Tát Kusa có oai lực phi thường, uy thế của Đức Vua Bồ Tát khiến cho các nước trong cõi Nam thiện bộ châu đều phải khâm phục.

Ban ngày, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī không có cơ hội nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Kusa xấu xí đáng ghê sợ, và Đức Vua Bồ Tát Kusa cũng không có cơ hội nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ. Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī chỉ gặp nhau ban đêm mà thôi.

Ban đêm, trong phòng của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī có ánh sáng mát tỏa ra từ thân hình của Bà như ban ngày, nên không cần đốt đèn, nhưng khi Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự vào phòng của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, do oai lực của Đức Vua Bồ Tát Kusa, ánh sáng ấy biến mất, nên không nhìn thấy nhau được; cho đến khi Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự ra khỏi phòng lúc ban đêm, thì ánh sáng lại tỏa ra như trước.

Trải qua 2-3 ngày sau, muốn nhìn thấy gương mặt xinh đẹp của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī như thế nào, nên Đức Vua Bồ Tát Kusa đến chầu Mẫu hậu, kính xin Mẫu hậu giúp cho có cơ hội nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu, nhưng Mẫu hậu khuyên Đức Vua Bồ Tát Kusa không nên vội vã, chờ đến khi nào có được một Thái tử sinh ra đời, khi ấy, nhìn thấy cũng không muộn.

Đức Vua Bồ Tát Kusa không thể chờ đợi, nóng lòng muốn được nhìn thấy gương mặt Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, nên lại đến chầu Mẫu hậu, kính xin Mẫu hậu giúp cho cơ hội để nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu của mình. Mẫu hậu của Ngài không khuyên được, nên bày ra diệu kế rằng:

– Này Hoàng nhi yêu quý! Nếu con muốn vậy thì con đứng đóng vai người giữ chuồng voi báu, Mẫu hậu dẫn Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đến xem voi báu, khi ấy, con sẽ nhìn thấy rõ Chánh cung Hoàng hậu của con, nhưng con chớ nên để cho nàng nghi ngờ.

Đức Vua Bồ Tát Kusa làm theo lời dạy của Mẫu hậu.

Mẫu hậu của Ngài truyền lệnh trang hoàng chuồng voi, Bà khuyên bảo Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī rằng:

– Này con yêu quý! Mẫu hậu và con ngự đi xem voi báu của Đức Vua Kusa, Đức Phu quân của con.

Nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự theo sau Mẫu hậu đến chuồng voi, Mẫu hậu chỉ cho nàng biết tên của mỗi con voi báu. Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Kusa đóng vai người nài voi báu, nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, liền đưa tay lấy phân voi ném sau lưng của nàng. Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nổi cơn thịnh nộ truyền bảo rằng: “Ta sẽ tâu với Đức Vua Kusa truyền lệnh chặt tay của ngươi.” Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tâu với Mẫu hậu xử phạt tên giữ voi vô lễ ấy, nhưng Mẫu hậu khuyên nàng nên tha tội cho người nài voi.

Một lần khác, Mẫu hậu dẫn Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự đi xem ngựa báu tại chuồng ngựa, Đức Vua Kusa đóng vai người giữ ngựa báu, nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, cũng đưa tay lấy phân ngựa ném sau lưng của nàng. Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nổi cơn thịnh nộ truyền bảo rằng: “Ta sẽ tâu với Đức Vua Kusa truyền lệnh chặt tay của ngươi.” Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tâu với Mẫu hậu xử phạt tên giữ ngựa vô lễ ấy, nhưng Mẫu hậu khuyên nàng nên tha tội cho người giữ  ngựa.

Một hôm, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī muốn nhìn thấy Đức Vua Kusa, nên tâu với Mẫu hậu, kính xin Mẫu hậu giúp cho cơ hội nhìn thấy Đức Vua Kusa, Đức Phu quân của mình là người như thế nào.

Mẫu hậu chiều ý, nên truyền bảo rằng:

– Này con yêu quý! Nếu con muốn như vậy, thì sáng ngày mai Đức Vua Kusa ngự trên lưng voi báu đi kinh lý trong kinh thành, con đứng trên lâu đài mở cửa sổ nhìn Đức Vua Kusa ngự trên lưng voi báu.

Mẫu hậu truyền bảo trang hoàng kinh thành, sắp đặt Hoàng tử Jayampati (Hoàng đệ của Đức Vua Kusa), mặc triều phục Đức Vua ngự phía trước voi báu, còn Đức Vua Bồ Tát Kusa như quan nài voi báu ngự phía sau đi xem kinh thành.

Khi ấy, Mẫu hậu dẫn Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đến đứng trên lâu đài nhìn xuống. Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī thấy Hoàng tử Jayampati tưởng là Đức Vua Kusa, nên nghĩ rằng: “Ta có được Đức Vua Kusa, Đức Phu quân thật xứng đáng với ta.” Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī rất hài lòng vô cùng hoan hỷ.

Hôm ấy, Đức Vua Bồ Tát Kusa đóng vai vị quan nài voi báu ngự phía sau, biết phía trên lâu đài có Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đứng nhìn, nên Đức Vua Bồ Tát Kusa ngoảnh đầu lên nhìn nàng, đưa tay vẫy, có cử chỉ không thích hợp.

Khi voi báu đi qua khỏi, Mẫu hậu truyền hỏi Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī rằng:

– Này con yêu quý! Con đã nhìn thấy Đức Vua Kusa, Đức Phu quân của con rồi phải không?

Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tâu rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu, Con đã nhìn thấy Đức Vua Kusa

Đức Phu quân của con rồi, nhưng vị quan nài voi báu ngồi phía sau Đức Vua Kusa, mặt mày xấu xí đáng ghê sợ, có cử chỉ không thích hợp như đưa tay vẫy con.

– Muôn tâu Mẫu hậu, tại sao để cho người xấu xí đáng ghê sợ như vậy ngồi phía sau Đức Vua Kusa được.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tâu như vậy, Mẫu hậu khuyên bảo rằng:

– Này con yêu quý! Người ấy có tài bảo vệ hộ giá Đức Vua Kusa, Đức Phu quân của con được.

Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī suy nghĩ rằng: “Người nài voi này sao được đặc ân tha lỗi đặc biệt quá! Ông không biết tôn trọng Đức Vua Kusa, hay người nài voi này chính là Đức Vua Kusa phải không?”

Để giải đáp điều hoài nghi này, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī gọi bà Khujjā nữ hầu thân cận đến truyền bảo rằng:

– Này bà Khujjā! Khi voi báu trở về cung điện, bà nên theo dõi Đức Vua Kusa ngự trên lưng voi báu phía trước hay phía sau?

– Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu, làm sao con biết Đức Vua Kusa được?

– Này bà Khujjā! Khi voi báu trở về cung điện, bà nên  theo dõi, vị nào từ trên lưng voi báu ngự xuống trước vị đó là Đức Vua Kusa.

Khi voi báu trở về cung điện, Đức Vua Bồ Tát Kusa từ trên lưng voi báu phía sau ngự xuống trước, Đức Vua Bồ Tát Kusa nhìn xung quanh, thấy bà Khujjā nữ hầu thân cận của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đứng lén nhìn nơi ấy, nên gọi bà lại mà bảo rằng:

– Này bà Khujjā! Bà chớ nên tâu sự thật với Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, mà bà phải tâu khác đi!

Tuân lệnh Đức Vua Bồ Tát Kusa, bà Khujjā đến hầu Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tâu khác rằng:

“Đức Vua Kusa từ trên lưng voi báu phía trước ngự xuống trước.” Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī tin theo lời tâu của bà Khujjā nữ hầu của mình.

Một hôm, Đức Vua Bồ Tát Kusa muốn đến gần Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī để có thể nhìn thấy rõ gương mặt xinh đẹp của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, nên đến chầu đảnh lễ Mẫu hậu, xin Mẫu hậu giúp cho có cơ hội. Mẫu hậu của Ngài không thể ngăn cản được, nên truyền bảo rằng:

– Này Hoàng nhi yêu quý! Nếu vậy thì con giả dạng không để ai biết, rồi con ngự đến vườn thượng uyển, đứng dưới hồ nước đến cổ, lấy lá sen che đầu, lấy hoa sen che mặt lại.

Hôm ấy, Mẫu hậu Sīlavatī dẫn Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự đi cùng đoàn thị nữ du lãm vườn thượng uyển, đi xem các đàn chim đủ loài, các đàn nai, v.v…đi đến hồ nước lớn có nhiều loại hoa sen, hoa súng đủ màu rất xinh đẹp. Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nhìn thấy hồ nước trong, nhiều hoa sen đẹp, nên xin Mẫu hậu cho phép xuống hồ tắm, hái hoa sen.

Được Mẫu hậu cho phép, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī cùng các thị nữ xuống hồ tắm. Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nhìn thấy đóa hoa sen nở đẹp, đưa cánh tay định hái hoa sen ấy, thì Đức Vua Bồ Tát Kusa đưa tay nắm cánh tay của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, rồi reo lên rằng: “ Ta là Đức Vua Kusa!”

Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nhìn thấy gương mặt của Đức Vua Bồ Tát Kusa xấu xí đáng ghê sợ, rồi kêu thất thanh rằng: “Dạ-xoa bắt tôi!” Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngã xuống nước chết giấc. Đức Vua Bồ Tát Kusa buông tay của Bà ra, các thị nữ đưa Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī lên bờ nằm cấp cứu cho tỉnh lại.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī hồi tưởng lại sự việc Đức Vua Bồ Tát Kusa nắm tay bà mà reo lên rằng: “Ta là Đức Vua Kusa!” Trước đây, tại chuồng voi, bà bị chính người này ném phân voi; tại chuồng ngựa, bà cũng bị chính người này ném phân ngựa; nay bà lại bị chính người này là Đức Vua Kusa nắm tay bà.

Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī quyết định rằng: “Ta không thể có Đức phu quân là Đức Vua Kusa có gương mặt xấu xí đáng ghê sợ như thế này. ta phải bỏ Đức Vua Kusa này ngự trở về kinh thành Sāgala của ta mà thôi.”

Sau khi quyết định, Công chúa Pabhāvatī truyền gọi các quan theo hầu của mình đến truyền bảo rằng:

– Này các khanh! Các khanh hãy chuẩn bị xe cộ sẵn sàng cho ta ngự trở về kinh thành Sāgala, đất nước Madda ngay hôm nay.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī truyền lệnh như vậy, các quan đến chầu Đức Vua Bồ Tát Kusa, rồi tâu ý định của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī cho Đức Vua Bồ Tát Kusa biết.

Đức Vua Bồ Tát Kusa suy nghĩ rằng: “Nếu Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī không được ngự trở về kinh thành Sāgala thì trái tim của nàng sẽ bị vỡ ra. Vậy, ta nên chấp thuận cho phép nàng ngự trở về trước, rồi ta sẽ cố gắng đưa nàng ngự trở lại bằng oai lực của ta.”

Suy nghĩ như vậy, nên cho phép Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự trở về kinh thành Sāgala.

Sau khi Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự đi rồi, Đức Vua Bồ Tát Kusa cũng rời khỏi vườn thượng uyển, hồi cung ngự trở về cung điện, ngự lên lâu đài với nỗi khổ tâm cùng cực.

Vấn: – Do nguyên nhân nào mà Thái tử Bồ Tát Kusa có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ, được thành hôn với Công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần như vậy?

– Do nguyên nhân nào mà Công chúa Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần, đặc biệt có ánh sáng tỏa ra từ thân hình Công chúa suốt ngày đêm xung quanh khoảng 4 cùi tay như vậy?

– Tại sao Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī không ưa thích Đức Vua Bồ Tát Kusa, bỏ trở về kinh thành Sāgala?

– Do oai lực nào mà Đức Vua Bồ Tát Kusa đưa Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī trở lại kinh thành Kusāvatī?

Để giải đáp các vấn đề này, cần phải tìm hiểu về tiền kiếp của Thái tử Bồ Tát Kusa và tiền kiếp Công chúa Pabhāvatī.

Tiền Kiếp Của Thái Tử Bồ Tát Kusa Và

Tiền Kiếp Công Chúa Pabhāvatī.

Thời quá khứ, trong xóm nhà có 2 gia đình ở gần cửa thành Bārāṇasī, một gia đình này có 2 người con trai: người anh cả và người em thứ Đức Bồ Tát (là tiền kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Kusa cũng là tiền kiếp của Đức Phật Gotama); và một gia đình kia có 1 người con gái (là tiền kiếp của Công chúa Pabhāvatī.)

Gia đình bên này làm lễ cưới người con gái gia đình bên kia đem về làm vợ của người con cả, Đức Bồ Tát là con thứ chưa có vợ nên còn ở chung với vợ chồng người anh cả.

Một hôm, trong nhà người chị dâu làm bánh chiên thật ngon, nhưng Đức Bồ Tát em chồng đi làm trong rừng từ sáng sớm, nên người chị dâu để dành một phần bánh cho Đức Bồ Tát em chồng, phần bánh còn lại đem chia cho các người trong gia đình dùng hết sạch.

Nhìn ra trước cửa, thấy Đức Phật Độc Giác ngự đi khất thực đến đứng trước cửa nhà. Khi ấy, người chị dâu của Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “Ta sẽ làm bánh chiên mới khác cho người em chồng.” Nghĩ vậy, người chị dâu lấy phần bánh chiên dành cho người em chồng đem ra cung kính hoan hỷ làm phước thiện bố thí cúng dường để bát đến Đức Phật Độc Giác. Ngay khi ấy, vừa đúng lúc Đức Bồ Tát em chồng từ rừng trở về, người chị dâu nói với Đức Bồ Tát em chồng rằng:

– Này em trai! Xin em nên phát sinh thiện tâm hoan hỷ phần phước thiện bố thí thanh cao này, chị đã lấy phần bánh chiên dành cho em đem làm phước thiện bố thí, đặt bát cúng dường đến Đức Phật Độc Giác rồi, chị sẽ làm ngay bánh chiên mới khác cho em dùng.

Nghe người chị dâu nói như vậy, Đức Bồ Tát em chồng đã không phát sinh thiện tâm hoan hỷ, trái lại phát sinh tâm sân giận dữ nói với người chị dâu rằng:

“Các người ăn phần bánh chiên của mình hết rồi, lại lấy phần bánh chiên của ta đem làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Độc Giác nữa! Vậy, ta lấy gì để ăn bây giờ!”

Nói bằng giọng hằn học như vậy, rồi Đức Bồ Tát em chồng vội lấy lại phần bánh chiên từ trong bát của Đức Phật Độc Giác.

Nhìn thấy người em chồng làm như vậy, người chị dâu đảnh lễ Đức Phật Độc Giác thỉnh Ngài chờ một lát, nàng vội đi đến nhà cha mẹ mình lấy bơ lỏng mới và trong trẻo có màu giống màu hoa lan, đem về cung kính làm phước thiện bố thí cúng dường để đầy bát của Đức Phật Độc Giác, với thiện tâm vô cùng hoan hỷ.

Nhìn thấy bơ lỏng tỏa ra ánh sáng, nàng phát sinh thiện tâm trong sạch phát nguyện rằng:

– Kính bạch Ngài, do phước thiện bố thí cúng dường bơ lỏng mới trong trẻo này, xin cho thiện nghiệp bố thí này cho quả tái sinh kiếp sau của con có sắc đẹp tuyệt trần như thiên nữ, thân hình của con có ánh sáng tỏa ra suốt ngày đêm, đặc biệt xin cho kiếp sau của con không sống chung cùng một chỗ với kẻ ác như người em trai chồng này của con.

Khi nghe lời phát nguyện của người chị dâu như vậy, Đức Bồ Tát em chồng vội đem phần bánh chiên của mình đến xin làm phước thiện bố thí cúng dường đặt trong bát đầy bơ lỏng của Đức Phật Độc Giác, rồi xin phát nguyện rằng:

– Kính bạch Ngài, kiếp sau của người chị dâu này của con, dù ở bất cứ nơi xa xôi nào hằng trăm do tuần đi nữa, xin cho kiếp sau của con cũng có khả năng đem về làm vợ của con cho được.

Đó là tiền kiếp của Thái tử Bồ Tát Kusa và tiền kiếp Công chúa Pabhāvatī với nghiệp của mỗi người và lời phát nguyện của mỗi người như vậy.

* Sở dĩ Thái tử Bồ Tát Kusa có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ là vì quả của ác nghiệp giận dữ, lấy lại phần bánh chiên của mình từ trong bát của Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của Ngài.

phước thiện bố thí cúng dường đặt bát phần bánh chiên của mình đến Đức Phật Độc Giác, rồi phát nguyện, nên kiếp hiện tại Đức Bồ Tát Thái tử Kusa cưới được Công chúa Pabhāvatī đem về tấn phong lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu, do lời phát nguyện trong tiền kiếp của Ngài.

* Sở dĩ Công chúa Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần như thiên nữ, có ánh sáng tỏa ra từ thân hình của cô suốt ngày đêm xung quanh khoảng 4 cùi tay, là vì quả báu của phước thiện bố thí cúng dường bơ lỏng mới trong trẻo, đặt đầy bát của Đức Phật Độc Giác, với thiện tâm vô cùng hoan hỷ.

Khi Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī biết Đức Vua Bồ Tát Kusa có gương mặt xấu xí đáng ghê sợ, nên Bà bỏ Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự trở về lại kinh thành Sāgala, do lời phát nguyện trong tiền kiếp của Bà.

Sau khi Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự trở về kinh thành Sāgala, Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự tại kinh thành Kusāvatī, tuy có nhiều Công chúa xinh đẹp, nhưng Đức Vua Bồ Tát Kusa không quan tâm đến người nào cả, Đức Vua Bồ Tát suốt đêm chỉ nhớ tưởng đến Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī mà thôi.

Sáng ngày hôm sau, Đức Vua Bồ Tát Kusa đến chầu đảnh lễ Mẫu hậu, rồi tâu rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu, con xin giao ngai vàng lại cho Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, con xin rời khỏi kinh thành Kusāvatī, ngự đi đến kinh thành Sāgala tìm gặp lại Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī của con.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Kusa tâu như vậy, Mẫu hậu của Ngài vô cùng khổ tâm truyền bảo rằng:

– Này Hoàng nhi yêu quý! Con chớ nên dể duôi!

Mẫu hậu chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho Đức Vua Bồ Tát Kusa. Nhận mọi thứ cần thiết ấy, Đức Vua Bồ Tát Kusa đảnh lễ Mẫu hậu, tâu rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu, nếu con còn sống trên đời thì con sẽ ngự trở về chầu Mẫu hậu.

Đức Vua Bồ Tát Kusa xin phép bái biệt.

Đức Vua Bồ Tát Kusa trở về phòng lấy 5 loại khí giới đeo bên mình và mang theo một chiếc đàn, giả dạng như người bình thường rời khỏi kinh thành Kusāvatī, lên đường hướng về kinh thành Sāgala.

Đức Bồ Tát Kusa có sức mạnh phi thường ngự đi đến kinh thành Sāgala khoảng cách hơn 100 do tuần do oai lực của Ngài.

Khi đến kinh thành Sāgala, Đức Bồ Tát Kusa xin nghỉ nhờ đêm chỗ người nuôi voi báu của Đức Vua Madda. Do oai lực của Đức Bồ Tát Kusa, nên Công chúa Pabhāvatī không thể nằm trên giường ngủ, mà phải xuống nằm dưới nền để ngủ.

Ngủ nghỉ khỏe xong, Đức Bồ Tát Kusa thức dậy, đem chiếc đàn ra gảy, vừa gảy đàn vừa ca hát, tiếng đàn réo rắt, lời ca làm xúc động lòng người, với ý nghĩ cho Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī nghe rõ, những người trong cung điện và dân chúng trong kinh thành đều nghe rõ tiếng đàn và lời ca này.

Công chúa Pabhāvatī nằm ngủ trên nền nghe tiếng đàn và lời ca liền biết ngay đó là tiếng đàn và lời ca của Đức Vua Kusa. Và Đức Vua Madda nghe tiếng đàn và lời ca hay chưa từng nghe bao giờ nên nghĩ rằng: “Ai gảy đàn và ca nghe hay quá! ngày mai mời người ấy vào cung điện trình diễn cho ta và hoàng gia nghe.”

Đức Bồ Tát Kusa nghĩ rằng: “Ta ở chỗ này không thể nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī.” Sáng sớm Đức Bồ Tát Kusa di chuyển sang chỗ khác.

* Tìm đến chỗ làm các đồ gốm cho Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu, và các Công chúa dùng, Đức Bồ Tát Kusa xin vào làm học trò cốt để làm những món đồ gốm đẹp đặc biệt cho Công chúa Pabhāvatī dùng, nhưng khi nhận các món đồ gốm xinh đẹp ấy, Công chúa Pabhāvatī biết các món đồ ấy là do bàn tay của Đức Vua Kusa làm ra, nên Công chúa Pabhāvatī không dùng món đồ ấy. Biết như vậy, Đức Bồ Tát Kusa đổi chỗ làm khác.

* Tìm đến chỗ làm các đồ đan cho Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu, và các Công chúa dùng. Đức Bồ Tát Kusa xin vào làm học trò, cốt để làm những món đồ đan xinh đẹp đặc biệt cho Công chúa Pabhāvatī dùng, nhưng khi nhận các món đồ đan xinh đẹp ấy, Công chúa Pabhāvatī biết các món đồ ấy là do bàn tay của Đức Vua Kusa làm ra, nên Công chúa không dùng món đồ đan ấy. Biết như vậy, Đức Bồ Tát Kusa đổi chỗ làm khác.

* Tìm đến chỗ kết vòng hoa cho Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu, và các Công chúa trang sức. Đức Bồ Tát Kusa xin vào làm học trò, cốt để làm những vòng hoa xinh đẹp cho Công chúa Pabhāvatī trang sức, nhưng khi nhận các vòng hoa xinh đẹp ấy, Công chúa Pabhāvatī biết các vòng hoa ấy là do bàn tay của Đức Vua Kusa kết ra, nên Công chúa Pabhāvatī không trang sức. Biết như vậy, Đức Bồ Tát Kusa đổi chỗ làm khác.

* Tìm đến chỗ nấu nướng đồ ăn cho Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu, và các Công chúa dùng. Đức Bồ Tát Kusa xin vào làm phụ bếp, cốt để làm những món đồ ăn ngon đặc biệt cho Công chúa Pabhāvatī dùng.

Đức Vua Madda biết có một người phụ đầu bếp mới tài giỏi, nên truyền bảo với người trưởng bếp rằng:

– Này người trưởng bếp! Hằng ngày ngươi mang đồ ăn dâng đến Trẫm và Chánh cung Hoàng hậu, còn người phụ đầu bếp mới tài giỏi ấy mang đồ ăn dâng đến các Công chúa của Trẫm.

Nghe Đức Vua truyền bảo như vậy, người trưởng bếp về nói lại với Đức Bồ Tát Kusa theo lệnh Đức Vua.

Nghe nói vậy, Đức Bồ Tát Kusa cảm thấy vô cùng hoan hỷ, bởi vì ước nguyện gặp lại Công chúa Pabhāvatī chắc chắn sẽ được như ý vào ngày hôm sau.

Đức Bồ Tát Kusa Gặp Công Chúa Pabhāvatī

Sáng hôm ấy, Đức Bồ Tát Kusa nấu nướng đồ ăn dành cho Đức Vua Madda và Chánh cung Hoàng hậu, giao cho người trưởng bếp đem đi dâng lên Đức Vua Madda và Chánh cung Hoàng hậu, còn các phần ăn của các Công chúa thì đặt cẩn thận vào 2 bên làn bằng mây đựng đồ ăn (bhattakāja), Đức Bồ Tát Kusa hớn hở gánh 2 chiếc làn đựng đầy đồ ăn ngự bước lên lâu đài của Công chúa Pabhāvatī.

Nhìn thấy Đức Vua Kusa đang gánh các phần ăn ngự bước lên lâu đài, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Đức Vua Kusa ngự đến cung điện này làm những công việc của những người tôi tớ, người làm công làm, thật không thích hợp với Đức Vua Kusa có oai lực phi thường, là Đức Vua của đất nước lớn, cũng là Đức Vua cao cả nhất trong toàn cõi cõi Nam thiện bộ châu này.

 Nếu ta làm thinh không nói 2-3 ngày thì Đức Vua Kusa tưởng rằng: “Nay Công chúa Pabhāvatī có cảm tình, thương yêu ta rồi!” Đức Vua sẽ ở lại đây, không chịu ngự trở về kinh thành Kusāvatī. Vậy, ta nên chê trách Đức Vua một cách thậm tệ, làm cho Đức Vua thất vọng, khổ tâm vì hổ thẹn mà mau trốn khỏi nơi này.”

Công chúa Pabhāvatī mở hé cánh cửa, tay vẫn giữ cánh cửa, đứng bên trong tâu với Đức Vua Kusa rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương có oai lực phi thường, là Đức Vua của đất nước lớn, cũng là Đức Vua cao cả nhất trong toàn cõi cõi Nam thiện bộ châu này, ngự đến cung điện này làm người phụ đầu bếp, gánh đồ ăn ngự đến đây với tâm không chân thật, Đại Vương chịu bao nhiêu nỗi khổ thân khổ tâm suốt ngày đêm, Đại Vương sẽ được sự lợi ích gì với công việc vất vả khổ cực như vậy. Xin thỉnh Đại Vương ngự trở về kinh thành Kusāvatī của Đại Vương, rồi tấn phong nàng Dạ-xoa xấu xí đáng ghê sợ như Đại Vương lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu, rồi an hưởng trên ngai vàng. Còn tiện thiếp hoàn toàn không ưa thích Đại Vương có gương mặt xấu xí đáng ghê sợ như vậy. Xin thỉnh Đại Vương mau ngự ra khỏi kinh thành Sāgala này.

Hôm nay, Đức Bồ Tát Kusa vô cùng hoan hỷ được  nghe tiếng nói của Công chúa Pabhāvatī, nên vui mừng hớn hở truyền bảo rằng:

– Này ái khanh Pabhāvatī yêu quý! Quả nhân yêu tha thiết ái khanh, nên không thể ngự trở về kinh thành Kusāvatī được. Quả nhân rất hài lòng được nhìn thấy ái khanh, nên đã từ bỏ ngai vàng, kinh thành Kusāvatī, cả đất nước Malla rộng lớn, ngự đến kinh thành Sāgala, ở trong cung điện của Đức Vua Madda này.

– Này ái khanh Pabhāvatī yêu quý! Quả nhân yêu thương say mê ái khanh, nên không còn biết phương hướng nữa. Quả nhân chỉ cần có ái khanh mà thôi, không cần ngai vàng ngôi vị Đế Vương.

Nghe Đức Bồ Tát Kusa truyền bảo như vậy, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Ta chê trách Đức Vua Kusa một cách thậm tệ như vậy, với hy vọng làm cho Đức Vua tuyệt vọng, khổ tâm vì hổ thẹn mà mau rời khỏi kinh thành Sāgala này, nhưng trái lại Đức Vua Kusa truyền bảo lời yêu thương tha thiết ta, yêu say mê ta. Nếu Người truyền bảo rằng: “Ta là Đức Vua Kusa đây!” Rồi ngự đến nắm tay của ta thì ai dám ngăn cấm Người được.”

Nghĩ vậy, nên Công chúa Pabhāvatī lùi vào bên trong, đóng cánh cửa, cài chốt lại rồi ngồi trong phòng.

Thấy Công chúa Pabhāvatī đóng cánh cửa kín, Đức Bồ Tát Kusa gánh các phần ăn ngự đến dâng 7 Công chúa khác.

Công chúa Pabhāvatī truyền gọi bà Khujjā nữ hầu thân cận đến bảo rằng:

– Này bà Khujjā! Bà hãy đi lấy phần ăn của ta đến đây.

 Vâng lệnh Công chúa Pabhāvatī, bà Khujjā đem phần ăn lại, rồi tâu rằng:

– Tâu Công chúa, xin mời Công chúa dùng bữa.

Công chúa Pabhāvatī truyền bảo rằng:

Này bà Khujjā! Ta không dùng các món ăn mà chính bàn tay của Đức Vua Kusa nấu nướng. Vậy, bà hãy dùng phần ăn ấy, còn phần ăn của bà đem dâng cho ta dùng.

Này bà Khujjā! Bà không được nói cho một ai biết Đức Vua Kusa đang hiện hữu tại nơi đây,

Từ đó về sau, bà Khujjā dùng phần ăn của Công chúa Pabhāvatī, đem phần ăn của bà dâng đến Công chúa Pabhāvatī dùng. Và cũng bắt đầu từ ngày đó, Đức Vua Bồ Tát Kusa không còn nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī.

Đức Vua Bồ Tát Kusa suy nghĩ rằng: “Không biết Công chúa Pabhāvatī có còn thương nhớ đến ta nữa hay không?” Ta nên thử xem cho biết.

Một hôm, sau khi đã đem dâng các phần ăn đến các Công chúa xong rồi, Đức Bồ Tát Kusa gánh đôi làn không ngự xuống lâu đài, vừa đến gần cửa phòng của Công chúa Pabhāvatī, giả bị vấp ngã nằm trên nền làm như bất tỉnh. Nghe có tiếng người vấp ngã, đồ đổ vỡ, Công chúa Pabhāvatī biết là Đức Vua Kusa bị vấp ngã, nên mở cửa ra nhìn, thấy Đức Vua Kusa nằm trên nền, cây đòn gánh đè ngang trên cổ, Công chúa Pabhāvatī suy nghĩ rằng: “Đức Vua Kusa là Đức Vua cao cả nhất trong cõi Nam thiện bộ châu này, ngự đến đây không ai hay biết, chịu bao nỗi khổ thân, khổ tâm chỉ vì ta mà thôi. Đức Vua Kusa là người an hưởng mọi sự an lạc trong đời, không quen vất vả khổ cực. Nay, hằng ngày Đức Vua Kusa phải nấu nướng, làm các món ăn xong, rồi gánh các phần ăn đem dâng đến các Công chúa. Bây giờ, Đức Vua Kusa bị vấp ngã nằm bất tỉnh, sinh mạng của Người hiện nay như thế nào?

 Suy nghĩ như vậy, nên Công chúa Pabhāvatī ngự ra khỏi phòng đến cúi đầu xuống gần sát gương mặt để xem hơi thở nơi 2 lỗ mũi của Đức Vua Bồ Tát Kusa. Khi ấy, Đức Bồ Tát Kusa ngậm đầy nước miếng trong miệng phun ra trên mặt của Công chúa Pabhāvatī.

Công chúa Pabhāvatī nổi cơn thịnh nộ mắng Đức Vua Kusa, rồi ngự ngay vào phòng đóng cửa để hở, đứng bên trong tâu với Đức Vua Kusa rằng:

– Tâu Đại Vương, người nào yêu người, mà người không yêu mình, người ấy chỉ có sự suy thoái mà thôi. Khi tiện nữ không yêu Đại Vương, mà Đại Vương muốn làm cho tiện nữ yêu Đại Vương sao được!

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu như vậy, nhưng Đức Bồ Tát Kusa không phát sinh cơn thịnh nộ, bởi vì Đức Bồ Tát yêu say mê Công chúa Pabhāvatī, nên Đức Bồ Tát Kusa truyền bảo với Công chúa Pabhāvatī rằng:

– Này Công chúa Pabhāvatī! Người nào được người không yêu mình, hoặc người yêu mình đem về làm người yêu của mình, ta tán dương ca tụng người ấy. Nếu không được thì là người tầm thường.

Nghe Đức Vua Kusa truyền bảo như vậy, Công chúa Pabhāvatī tâu với lời lẽ đanh thép, để Đức Vua Kusa không còn hy vọng gì nữa mà ngự trốn khỏi kinh thành Sāgala này, nên tâu rằng:

– Tâu Đại Vương, Đại Vương yêu tiện nữ mà tiện nữ chẳng hề yêu thương Đại Vương chút nào, ví như Đại Vương dùng cành cây khô mục mà phá đá để lấy viên ngọc quý, hoặc lấy lưới sưa đặt ngăn gió vậy.

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu như vậy, Đức Bồ Tát Kusa truyền bảo rằng:

– Này Công chúa Pabhāvatī! Đá đã được chôn trong trái tim của Công chúa xinh đẹp dịu dàng có phải không? Bởi vì từ khi quả nhân rời khỏi kinh thành Kusāvatī ngự đến kinh thành Sāgala, làm việc nấu nướng đồ ăn cho Đức Vua Madda và các Công chúa, quả nhân chưa nhận được sự đón tiếp niềm nở của ái khanh, chưa được nghe lời yêu thương của ái khanh.

– Này ái khanh! Nếu ái khanh còn có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với Trẫm thì Trẫm vẫn còn là người phụ bếp trong cung điện của Đức Vua Madda. Nếu khi nào, ái khanh đón tiếp Trẫm một cách niềm nở, hớn hở vui mừng chuyện trò thân mật với Trẫm thì khi ấy Trẫm sẽ bỏ công việc phụ bếp, Trẫm cùng ái khanh ngự trở về kinh thành Kusāvatī lên ngôi vua như trước.

– Này ái khanh! Tại sao ái khanh đối xử với Trẫm như vậy? Từ nay, xin ái khanh đừng có thái độ lãnh đạm với Trẫm như vậy nữa.

Nghe Đức Vua Kusa truyền bảo như vậy, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Đức Vua Kusa càng truyền bảo lại càng ràng buộc khắng khít nơi ta. Như vậy, ta nên tâu dối để Đức Vua Kusa không còn hy vọng nơi ta nữa, mà ngự trở về kinh thành Kusāvatī.” Công chúa Pabhāvatī tâu rằng:

Tâu Đại Vương, tiện nữ đã từng hỏi nhóm thầy đoán số rằng: “Đức Vua Kusa là Đức phu quân của ta có phải hay không?” Họ đều đoán rằng: “Đức Vua Kusa không phải là Đức phu quân của Bà,” Nếu lời đoán số của các thầy ấy là đúng thì Đại Vương chắc chắn không phải là Đức phu quân của tiện nữ.

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu như vậy, Đức Bồ Tát Kusa truyền bảo rằng:

– Này ái khanh! Nếu quả nhân hỏi các thầy đoán số trong đất nước của Trẫm thì họ chắc chắn đoán rằng: “Đức Phu quân của Công chúa Pabhāvatī chỉ là Đức Vua Kusa có giọng nói như sư tử rống mà thôi. Ngoài Đức Vua Kusa ra, chẳng còn ai khác nữa.

Nghe Đức Bồ Tát Kusa truyền bảo như vậy, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Ta không còn cách nào để cho Đức Vua Kusa rời khỏi kinh thành Sāgala, ngự trở về kinh thành Kusāvatī được. Đức Vua Kusa không phải là gì đối với ta nữa.” Nghĩ vậy, Công chúa đóng kín cánh cửa phòng không cho Đức Vua Kusa thấy nàng nữa.

Đức Bồ Tát Kusa gánh những thứ đựng đồ ăn bước xuống lâu đài. Từ đó không còn nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī nữa. Hằng ngày đêm, Đức Bồ Tát Kusa làm mọi công việc vô cùng vất vả, Ban đêm Đức Bồ Tát Kusa nằm ngủ tại nhà bếp, thức dậy sớm, nấu cháo, nấu các món ăn sáng để dâng đến Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu và các Công chúa xong, trở lại nhà bếp, bổ củi, gánh nước, rửa nồi niêu, bát đĩa, nấu nướng các món ăn để dâng lên Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu, và các Công chúa vào bữa ăn trưa và bữa ăn tối.

Sở dĩ, Đức Bồ Tát Kusa chịu đựng bao nhiêu nỗi khổ thân, khổ tâm vất vả suốt ngày đêm như vậy, là vì quá yêu say mê Công chúa Pabhāvatī.

Một hôm, nhìn thấy bà Khujjā, người hầu thân cận của Công chúa Pabhāvatī, Đức Bồ Tát Kusa ngự đến gặp bà, nhờ bà tâu với Công chúa Pabhāvatī gặp Ngài, và nói chuyện thân mật với Ngài. Nếu bà có khả năng làm được

như vậy, Ngài sẽ ban thưởng xứng đáng cho bà.

Bà Khujjā hứa với Đức Bồ Tát Kusa, bà sẽ cố gắng tâu với Công chúa Pabhāvatī.

Một hôm, Bà Khujjā có cơ hộị tâu với Công chúa Pabhāvatī rằng:

– Tâu Công chúa, xin Công chúa không nên thấy mình xinh đẹp tuyệt trần mà coi thường Đức Vua Kusa xấu xí đáng ghê sợ. Thật ra, Công chúa nên biết trong tâm rằng: Đức Vua Kusa có oai lực phi thường, rồi phát sinh tâm yêu thương Đức Vua.

Đức Vua Kusa là Thái tử của Đức Vua Okkāka, là Đại Vương ngự kinh thành Kusāvatī, trị vì đất nước Malla rộng lớn, …

Đức Vua Kusa là Đại Vương cao cả trong cõi Nam thiện bộ châu, …

Đức Vua Kusa có giọng nói như sư tử rống, giọng nói hùng dũng, giọng nói trầm hùng, giọng nói ngọt ngào,… để cho Công chúa Pabhāvatī phát sinh tâm yêu thương  Đức Vua.

Bà Khujjā đã cố gắng diễn tả các tài đức của Đức Vua Kusa lớn lao không có Đức Vua nào trong cõi Nam thiện bộ châu này có thể sánh được, còn gương mặt xấu xí chỉ là bên ngoài không đáng kể, để cho Công chúa Pabhāvatī không nên ỷ lại vào sắc đẹp tuyệt trần của mình mà coi thường Đức Vua Kusa xấu xí.

Nếu Công chúa Pabhāvatī nhận thức được điều ấy thì phát sinh tâm yêu thương Đức Vua Kusa, gặp, chuyện trò thân mật với Đức Vua.

Nghe bà Khujjā, người hầu thân cận của mình tán dương ca tụng Đức Vua Kusa mà chê trách mình, nên Công chúa Pabhāvatī nổi cơn thịnh nộ quở trách bà Khujjā, nhưng bà Khujjā không sợ lại còn hăm dọa Công chúa Pabhāvatī rằng:

– Tâu Công chúa, nếu Công chúa không chịu gặp Đức Vua Kusa, và không chuyện trò thân mật với Đức Vua thì con sẽ tâu lên Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của Công chúa về sự hiện hữu của Đức Vua Kusa tại cung điện này.

Nghe bà Khujjā tâu như vậy, Công chúa Pabhāvatī hoảng sợ năn nỉ khẩn khoản bà Khujjā xin đừng tâu chuyện này lên Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của Bà.

Đức Bồ Tát Kusa Thất Vọng

Đức Bồ Tát Kusa chịu bao nhiêu nỗi khổ thân khổ tâm, vất vả suốt ngày đêm lo việc nấu nướng các món đồ ăn để dâng lên Đức Vua Madda, Chánh cung Hoàng hậu và Công chúa, với hy vọng mong gặp được Công chúa Pabhāvatī để chuyện trò thân mật; nhưng chờ đợi suốt 7 tháng qua mà vẫn chưa được như ý, nên Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “Bà Khujjā đã hứa giúp đỡ ta gặp được Công chúa Pabhāvatī, nhưng mãi đến nay vẫn không có tin gì cả. Cuộc sống của ta tại nơi này chỉ là vô vọng mà thôi. Vậy, ta nên ngự trở về kinh thành Kusāvatī, để thăm viếng ĐứcPhụ Vương và Mẫu hậu của ta là hơn.”

Đức Vua Trời Sakka Giúp Đức Bồ Tát Kusa

Khi ấy, trên cõi trời Tam thập Tam thiên, Đức Vua trời Sakka thấy và biết nỗi khổ tâm thất vọng của Đức Bồ Tát Kusa, nên nghĩ rằng: “Ta nên giúp Đức Bồ Tát Kusa gặp được Công chúa Pabhāvatī để mọi nguyện vọng của Đức Vua Bồ Tát Kusa được thành tựu như ý.”

Đức Vua trời Sakka truyền lệnh 7 vị thiên nam hóa thành 7 sứ giả của Đức Vua Madda đến chầu 7 Đức Vua tại 7 kinh thành đều tâu giống nhau rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Công chúa Pabhāvatī xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ, đã bỏ Đức Vua Kusa tại kinh thành Kusāvatī, ngự trở về kinh thành Sāgala rồi, nếu Đại Vương có nguyện vọng muốn được Công chúa thì xin Đại Vương ngự đến kinh thành Sāgala, xin làm lễ rước Công chúa Pabhāvatī ngự trở về kinh thành, rồi tấn phong lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của Đại Vương.

Nghe mỗi sứ giả tâu như vậy, mỗi Đức Vua vô cùng hoan hỷ liền truyền lệnh chuẩn bị các đoàn binh sẵn sàng, Đức Vua dẫn đầu các đoàn binh ngự đến kinh thành Sāgala. Bảy Đức Vua của 7 kinh thành gặp nhau vấn an lẫn nhau, rồi hỏi ý định ngự đến kinh thành Sāgala này, thì được biết 7 Đức Vua đều có một ý định giống nhau. Mỗi Đức Vua đều nổi cơn thịnh nộ Đức Vua Madda rằng:

“Đức Vua Madda có một Công chúa Pabhāvatī mà đem ban đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành. Đức Vua Madda đã làm một việc không thích hợp. Vậy, chúng ta nên bắt Đức Vua Madda đem ra trị tội.

Bảy Đức Vua dẫn đầu các đoàn binh tiến vào sát kinh thành Sāgala chờ lệnh. Mỗi Đức Vua truyền lệnh cho sứ giả của mình đem tối hậu thư đến trình lên Đức Vua Madda với lời lẽ rằng:

“Tâu Đức Vua Madda, xin Đức Vua ban Công chúa Pabhāvatī cho bổn vương hay chiến tranh.”

Đức Vua Madda cùng một lúc tiếp kiến 7 sứ giả của 7 kinh thành và nhận 7 tối hậu thư với lời lẽ giống nhau. Đức Vua Madda vô cùng hoảng sợ truyền lệnh các quan văn võ hội triều gấp, Đức Vua Madda trình bày sự việc xảy ra như vậy, nên truyền hỏi các quan rằng:

– Này các khanh! Sự việc xảy ra như vậy, Trẫm nên làm thế nào, xin các quan tâu trình cho Trẫm rõ?

Nghe Đức Vua truyền hỏi như vậy, vị quan tâu rằng:

– Muôn tâu Bệ hạ, 7 Đức Vua của 7 kinh thành ngự đến vây bên ngoài kinh thành của chúng ta chỉ vì muốn được Công chúa Pabhāvatī, nếu họ không được như ý thì 7 Đức Vua truyền lệnh phá thành tiến vào bắt Bệ hạ và Công chúa Pabhāvatī. Vậy, Bệ hạ nên ban Công chúa Pabhāvatī cho các Đức Vua trước, để tránh cửa thành bị phá và bệ hạ bị bắt trị tội.

Nghe vị quan tâu như vậy, Đức Vua Madda truyền bảo rằng:

– Này các khanh! Nếu Trẫm ban Công chúa Pabhāvatī đến một Đức Vua của một kinh thành này thì 6 Đức Vua của 6 kinh thành kia sẽ gây chiến với chúng ta. Cho nên, Trẫm không thể ban Công chúa Pabhāvatī đến một Đức Vua nào được. Sự thật, nguyên nhân xảy ra hôm nay là do Công chúa Pabhāvatī của Trẫm, bởi vì Công chúa Pabhāvatī có tính ngã mạn ỷ lại vào sắc đẹp tuyệt trần của mình mà chê Đức Vua Kusa xấu xí, rồi đã bỏ Đức Vua Kusa là một Đức Vua có oai lực phi thường, Đức Vua cao cả nhất trong cõi Nam thiện bộ châu này. Cho nên, chính Công chúa Pabhāvatī của Trẫm phải chịu hậu quả của nghiệp mà mình đã tạo.

Trẫm sẽ truyền lệnh cho đao phủ giết Công chúa Pabhāvatī, chặt thân hình Công chúa ra làm 7 phần, rồi đem ban đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành, để tránh khỏi tai họa chiến tranh phá thành, tránh khỏi sự chết chóc thê thảm.

Đức Vua Madda truyền bảo như vậy, trong cung điện hay biết, các nữ tỳ của Công chúa Pabhāvatī đến tâu lệnh của Đức Vua cho Công chúa Pabhāvatī biết như vậy, Công chúa Pabhāvatī vô cùng kinh sợ, trên gương mặt đầy nước mắt, vội đến lâu đài chầu Mẫu hậu, tâu với Mẫu hậu với lời than vãn rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu, Đức Phụ Vương truyền lệnh cho đao phủ giết con, chặt thân hình của con ra làm 7 phần, rồi đem ban đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành.

– Muôn tâu Mẫu hậu, 7 Đức Vua ấy sẽ ném phần thân thể của con cho các con chim kên kên, diều hâu,… cắn xé nhau ăn thịt, hoặc các loài thú rừng tranh giành nhau ăn thịt.

– Muôn tâu Mẫu hậu, kính xin Mẫu hậu truyền lệnh cho lính gôm nhặt các xương ấy lại, rồi thiêu ra tro, rải trên mặt đất, Mẫu hậu truyền lệnh làm vườn hoa, trồng cây hoa kaṇikā. Khi nào đến mùa kaṇikā nở rộ, khi ấy, Mẫu hậu nhớ đến con rằng: “Công chúa Pabhāvatī của ta có màu da giống như hoa kaṇikā như thế này.”

Công chúa Pabhāvatī bị sự chết hăm dọa, nên than vãn với Mẫu hậu của mình như vậy. Còn Đức Vua Madda truyền lệnh gọi tên đao phủ mang thanh đao bén đến, đặt thanh đao phía trước Đức Vua, đứng chờ lệnh.

Khi ấy, Mẫu hậu của Công chúa Pabhāvatī có vẻ mặt sầu thảm, khóc than, ngự đến chầu Đức Vua Madda, nhìn thấy thanh đao và tên đao phủ đứng chầu chờ lệnh, Chánh cung Hoàng hậu khóc than thảm thiết tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng sẽ truyền lệnh giết Công chúa Pabhāvatī của thần thiếp bằng thanh đao này, chặt thi thể ra làm 7 phần rồi ban đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành thật vậy hay sao?

Nghe Chánh cung Hoàng hậu tâu như vậy, Đức Vua Madda truyền bảo cho Chánh cung Hoàng hậu hiểu rằng:

– Này Ái khanh! Công chúa Pabhāvatī của Ái khanh xinh đẹp tuyệt trần có tính tự cao mà chê Đức Vua Kusa xấu xí, rồi bỏ Đức Vua Kusa có oai lực phi thường, là Đức Vua cao cả nhất trong toàn cõi Nam thiện bộ châu. Như vậy, Công chúa Pabhāvatī của Ái khanh đã chuốc lấy cái chết cho mình, nên ngày nay phải chịu quả của nghiệp của mình. Trẫm đành phải truyền lệnh như vậy, để tránh khỏi tai họa chiến tranh xảy ra, tránh khỏi sự chết chóc thê thảm.

Nghe Đức Vua Madda truyền bảo như vậy, nên Chánh cung Hoàng hậu đảnh lễ Đức Vua, xin phép ngự đến lâu đài Công chúa Pabhāvatī, than vãn rằng:

– Này Pabhāvatī yêu quý! Mẫu hậu đành bất lực không thể cứu sống con được, Đức Phụ Vương của con không chịu làm theo lời khẩn khoản của Mẫu hậu. Hôm nay, thân hình của con sẽ bị chặt ra làm 7 phần, con sẽ gặp tử thần một cách rất thê thảm.

– Này Pabhāvatī yêu quý! Nếu người con nào không vâng lời cha mẹ là người mà luôn luôn mong muốn những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho con mình, thì người con ấy phải chịu quả khổ như vậy.

Nếu ngày trước con có được một Thái tử khôi ngô tuấn tú với Đức Vua Kusa thì con sẽ được hạnh phúc an lạc trong hoàng gia biết dường nào! Ngày nay con đâu phải chịu cảnh khốn khổ, chịu chết thê thảm như thế này.

 Mẫu hậu của Công chúa Pabhāvatī than vãn như vậy, rồi Bà thốt lên rằng:

Nếu hôm nay, giả sử có Đức Vua Kusa oai lực phi thường, có giọng nói như sư tử rống, có thể cầm quân xuất trận đánh đuổi 7 Đức Vua của 7 kinh thành hoảng sợ bỏ chạy thoát thân, cứu sống Công chúa Pabhāvatī của ta thì hay biết chừng nào! Không biết hiện giờ, Đức Vua Kusa đang ngự nơi nào?

Nghe Mẫu hậu tán dương ca tụng Đức Vua Kusa như vậy, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Đức Vua Kusa đang ngự tại trong cung điện, hằng ngày lo công việc nấu nướng, làm các món ăn dâng Đức Phụ Vương, Mẫu hậu và các Công chúa. Vậy, bây giờ ta nên tâu cho Mẫu hậu của ta biết:     

– Muôn tâu Mẫu hậu kính yêu! Đức Vua Kusa nào có oai lực phi thường, có giọng nói như sư tử rống, có thể cầm quân xuất trận đánh đuổi 7 Đức Vua của 7 kinh thành hoảng sợ bỏ chạy thoát thân. Đức Vua Kusa ấy đang hiện hữu tại nơi đây. Tâu Mẫu hậu.

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu như vậy, Mẫu hậu của Công chúa nghĩ rằng: “Công chúa của ta quá sợ chết, nên nói xàm như vậy.” Mẫu hậu của Công chúa truyền bảo rằng:

– Này Pabhāvatī! Con điên rồi hay sao mà con nói xàm như vậy, hay con là đứa vô giáo dục, mới có thể nói

như vậy. Nếu Đức Vua Kusa ngự đến kinh thành Sāgala thật, thì tại sao Đức Phụ Vương và Mẫu hậu không hề hay biết? Con quá sợ chết rồi nói xàm có phải không?

Khi Mẫu hậu truyền bảo như vậy, Công chúa Pabhāvatī nghĩ rằng: “Mẫu hậu không tin lời của ta, và không biết Đức Vua Kusa đã ngự đến đây suốt 7 tháng qua, vậy, ta sẽ chỉ Đức Vua Kusa cho Mẫu hậu của ta thấy. Công chúa Pabhāvatī liền nắm tay của Mẫu hậu đến mở cánh cửa sổ, đưa tay chỉ về phía nhà bếp, để cho Mẫu hậu nhìn xuống, rồi tâu rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu kính yêu! Đức Vua Kusa giả dạng làm người đầu bếp đang đứng rửa các nồi niêu, bát đĩa tại nhà bếp gần lâu đài của các con.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Kusa nghĩ rằng: “Hôm nay, nguyện vọng của ta chắc chắn sẽ được thành tựu như ý, bởi vì Công chúa Pabhāvatī quá sợ chết, nên tâu với Mẫu hậu và Đức Phụ Vương biết rằng: “Ta đang hiện hữu ngự trong cung điện này.” Đức Bồ Tát Kusa ngự đi lấy nước về tiếp tục rửa các bát đĩa còn lại, rồi dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ.

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu như vậy, Mẫu hậu quở mắng Công chúa Pabhāvatī rằng:

– Này Pabhāvatī! Đứa con gái hư thuộc giai cấp hèn hạ, hay đứa con gái làm hại hoàng gia phải không? Con là Công chúa của Đức Vua Madda, là Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Kusa, tại sao con để Đức Vua Kusa, Phu quân của mình làm người tôi tớ như vậy?

Công chúa Pabhāvatī bị Mẫu hậu quở mắng, nên tâu cho Mẫu hậu rõ rằng:

– Muôn tâu Mẫu hậu kính yêu, con đâu phải là gái hư thuộc giai cấp hèn hạ, hay đứa con gái làm hại hoàng gia. Người đứng kia là Đức Vua Kusa, Thái tử của Đức Thái Thượng Hoàng Okkāka và Chánh cung Hoàng hậu Sīlavatī ngự tại kinh thành Kusāvatī, trị vì đất nước Malla rộng lớn.

– Muôn tâu Mẫu hậu kính yêu, Mẫu hậu không nên nghĩ Đức Vua là người tôi tớ.

Nghe Công chúa Pabhāvatī tâu khẳng định như vậy, Mẫu hậu tin đó là sự thật, nên Bà ngự đến chầu Đức Vua Madda tâu trình rõ sự thật như vậy. Đức Vua Madda liền ngự đến lâu đài của Công chúa Pabhāvatī truyền hỏi rằng:

– Này Pabhāvatī! Nghe Mẫu hậu của con tâu với Đức Phụ Vương rằng: “Đức Vua Kusa đang hiện hữu ngự tại nơi đây, có thật như vậy hay không?” 

Công chúa Pabhāvatī tâu rằng:

– Muôn tâu Đức Phụ Vương kính yêu, Đức Vua Kusa

đang hiện hữu ngự tại nơi đây, đúng sự thật như vậy.

Đức Vua Madda quở mắng Công chúa rằng:

Này Pabhāvatī! Con là đứa con si mê khờ dại, con đã phạm đại tội nặng nề! Đức Vua Kusa có oai lực phi thường, là Đức Vua cao cả nhất trong toàn cõi Nam thiện bộ châu, như con bạch tượng quý báu. Vậy mà con để cho Đức Vua ngự đến đây như một con ếch được hay sao?

Sau khi quở mắng Công chúa Pabhāvatī, Đức Vua Madda vội ngự đến chầu Đức Bồ Tát Kusa, vấn an sức khỏe, rồi chắp hai tay tâu lời xin lỗi rằng:

– Muôn tâu Đại Vương cao cả, xin Đại Vương có tâm đại bi tha thứ những tội lỗi của bổn vương, bởi vì không biết Đại Vương đã ngự đến nơi đây với hình thức mà không một ai biết được.

Nghe Đức Vua Madda tâu như vậy, Đức Bồ Tát Kusa tâu để cho Đức Vua Madda an tâm rằng:

– Tâu Đại Vương, bổn vương là người đầu bếp mà Đại Vương kính trọng.

– Tâu Đại Vương cao quý, Đại Vương không có tội lỗi nào khiến cho bổn vương phải tha thứ.

Sau khi tâu chuyện với Đức Bồ Tát Kusa, Đức Vua Madda xin phép ngự trở lại lâu đài Công chúa Pabhāvatī, truyền bảo rằng:

– Này Pabhāvatī si mê khờ dại! Con hãy mau đi chầu đảnh lễ Đức Vua Kusa, rồi cúi xin Người có tâm đại bi tha thứ tội lỗi, may ra sinh mạng của con sẽ được cứu sống trong ngày hôm nay.

Công Chúa Pabhāvatī Chầu Đức Vua Bồ Tát Kusa

Tuân lệnh Đức Phụ Vương, Công chúa Pabhāvatī và 7

hoàng muội ngự đi cùng với đoàn thị nữ đông đảo đến chầu Đức Bồ Tát Kusa tại nơi nhà bếp.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Kusa đang đứng rửa nồi niêu, bát đĩa. Nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī dẫn đầu đoàn tùy tùng thuộc hạ đang ngự đến, Đức Bồ Tát nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ làm cho Công chúa  không còn ngã mạn nữa, mà phải cúi lạy dưới hai bàn chân của ta trên vũng bùn lầy này.”

Đức Bồ Tát Kusa đổ hết nước xuống nền đất, rồi lấy hai bàn chân đạp, để bùn lầy nổi lên xung quanh chỗ đứng. Công chúa Pabhāvatī ngự đến gần Đức Bồ Tát Kusa, cúi xuống đảnh lễ dưới đôi bàn chân, rồi nắm chặt đôi bàn chân của Đức Bồ Tát Kusa mà tâu rằng:

– Muôn tâu Hoàng Thượng cao cả, thần thiếp là Chánh

cung Hoàng hậu Pabhāvatī, thần thiếp thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Hoàng Thượng, kính xin Hoàng Thượng có tâm đại bi thương xót mà tha thứ mọi tội lỗi của thần thiếp, xin đừng nổi cơn thịnh nộ đối với thần thiếp nữa.

Thần thiếp phát nguyện với lời chân thật rằng: “Từ nay về sau, thần thiếp không còn ghét Hoàng Thượng nữa, chỉ có một lòng yêu thương tha thiết Hoàng Thượng mà thôi.”

Nếu Hoàng Thượng không có tâm đại bi thương xót tế độ thần thiếp đang khẩn khoản cầu xin, thì Đức Phụ Vương chắc chắn truyền lệnh tên đao phủ giết thần thiếp, rồi chặt ra làm 7 phần, đem ban đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành, ngay trong ngày hôm nay.

Nghe lời tha thiết khẩn khoản của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, Đức Vua Bồ Tát Kusa truyền bảo cho Chánh cung Hoàng hậu an tâm rằng:

– Này Ái khanh Pabhāvatī! Khi Ái khanh tha thiết khẩn khoản như vậy, không lẽ Trẫm không làm theo lời khẩn khoản cầu xin của Ái khanh được hay sao?

– Này Ái khanh Pabhāvatī! Trẫm không còn giận hờn Ái khanh nữa đâu. Ái khanh không nên sợ hãi gì cả.

– Này Ái khanh Pabhāvatī! Thật ra, Trẫm có thừa khả năng đánh chiếm kinh thành Sāgala, tàn sát hoàng gia Đức Vua Madda, bắt Ái khanh đem trở về kinh thành Kusāvatī, nhưng vì quá yêu thương tha thiết Ái khanh, nên Trẫm nhẫn nại chịu đựng bao nhiêu nỗi khổ thân khổ tâm cho đến ngày nay.

– Này Ái khanh Pabhāvatī! Trẫm cũng phát nguyện với lời chân thật rằng: “Trẫm không còn giận hờn Ái khanh nữa, Trẫm yêu thương tha thiết Ái khanh.”

Đức Vua Bồ Tát Kusa nhìn thấy Công chúa Pabhāvatī, Chánh cung Hoàng hậu của mình xinh đẹp tuyệt trần như thiên nữ hầu hạ Đức Vua trời Sakka, nên Đức Vua Bồ Tát Kusa phát sinh tâm ngã mạn vua chúa nghĩ rằng: “Khi ta đang còn hiện hữu trên đời này thì không một Đức Vua nào có khả năng chiếm đoạt Chánh cung Hoàng hậu của ta được!”

Đức Vua Bồ Tát Kusa muốn chứng tỏ oai lực phi thường để cho mọi người biết, nên Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự đến sân trước cung điện, tuyên bố cho toàn thể hoàng gia cùng dân chúng trong kinh thành Sāgala bằng giọng như sư tử rống rằng: “Ta là Đức Vua Kusa, đã ngự đến rồi! Ta sẽ bắt sống 7 Đức Vua của 7 kinh thành. Các ngươi hãy chuẩn bị voi báu và các đoàn binh cho ta.”

Đức Vua Bồ Tát Kusa tâu với Đức Vua Madda rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, việc bắt sống 7 Đức Vua của 7 kinh thành là phận sự của bổn vương. Kính thỉnh Đại Vương an hưởng sự an lạc trên lâu đài.

Đức Vua Madda truyền lệnh các quan gọi thợ đến cắt tóc sửa râu cho Đức Vua Bồ Tát Kusa xong, rồi Đức Vua Bồ Tát tắm, trang phục vương phục đầy đủ, ngự bước lên lâu đài cao, nhìn khắp mọi hướng, truyền lệnh rằng:

– Này quý vị! Xin quý vị hãy xem Trẫm cầm quân xuất trận chiến đấu với các kẻ thù.

Những hoàng thân của Đức Vua Madda ở trên lâu đài trong cung điện mở cửa sổ nhìn theo dõi Đức Vua Bồ Tát Kusa cầm quân xuất trận.

Khi ấy, Đức Vua Madda truyền lệnh quan nài voi dẫn con bạch tượng quý báu với trang sức đầy đủ, đem đến dâng Đức Vua Bồ Tát Kusa.

Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự lên ngồi trên cổ voi báu, phía trên có che chiếc lọng trắng, rồi truyền lệnh rằng:

– Này các khanh! Các khanh hãy mời Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đến.

Đức Vua Bồ Tát Kusa truyền bảo Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự lên voi báu ngồi phía sau Đức Vua.

Chiến Thắng 7 Đức Vua Của 7 Kinh Thành

Đức Vua Bồ Tát Kusa dẫn đầu 4 đoàn binh xuất trận ngự ra cửa thành hướng Đông, nhìn thấy các đoàn binh của kẻ thù mới tuyên bố bằng giọng sư tử rống 3 lần rằng: “Ta là Đức Vua Kusa! Ai muốn sống thì hãy đến khuất phục dưới chân ta.

Nghe giọng sư tử rống của Đức Vua Bồ Tát Kusa, làm cho 7 Đức Vua của 7 kinh thành đều mất trí điên loạn, kinh hồn bạt vía, không biết đường chạy thoát thân.

Nghe giọng sư tử rống của Đức Vua Bồ Tát Kusa, các đoàn binh như đoàn tượng binh, đoàn mã binh, đoàn quân xa, đoàn bộ binh vô cùng khiếp vía kinh hồn chạy tán loạn.

Đức Vua trời Sakka trên cõi trời Tam thập Tam thiên nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Kusa chiến thắng 7 Đức Vua của 7 kinh thành nơi trận địa, nên Đức Vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ dâng viên ngọc maṇi tên Verocana xán lạn đến Đức Vua Bồ Tát Kusa.

Đức Vua Bồ Tát Kusa Có Tướng Tốt Của Bậc Đại Nhân

Do oai lực viên ngọc maṇi tên Verocana xán lạn của Đức Vua trời Sakka, nên thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ của Đức Vua Bồ Tát Kusa đã biến mất, bây giờ Đức Vua Bồ Tát Kusa có những tướng tốt của bậc đại nhân thật đáng tôn kính.

Sau khi chiến thắng, Đức Vua Bồ Tát Kusa truyền lệnh bắt 7 Đức Vua của 7 kinh thành, trói 2 tay ra sau lưng dẫn đi theo Đức Vua Bồ Tát Kusa cùng với Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngồi trên voi báu ngự trở vào kinh thành.

Đức Vua Bồ Tát Kusa đem 7 Đức Vua của 7 kinh thành dâng đến Đức Vua Madda, Đức nhạc Phụ vương, tâu rằng:

– Tâu Đức nhạc Phụ vương, 7 Đức Vua của 7 kinh thành này là kẻ thù của Đức Phụ vương, họ có mưu đồ hại Đức Phụ vương, không phải kẻ thù của bổn vương. Nay, họ đã bị bắt nằm trong quyền sinh sát của Đức Phụ vương, kính thỉnh Đức Phụ vương phán xét họ tùy ý. Đức Phụ vương muốn 7 Đức Vua này trở thành kẻ tôi tớ hoặc giết chết tất cả, hoặc tha bổng để họ ngự trở về kinh thành của họ, tùy theo ý của Đức Phụ vương.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Kusa tâu như vậy, Đức Vua Madda tâu rằng:

– Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương là Đức Vua cao cả hơn bổn vương. Vậy, chính Đại Vương muốn giết 7 Đức Vua này thì giết, hoặc muốn tha bổng thì tha, để họ ngự trở về kinh thành của họ.

Nghe Đức Vua Madda tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Kusa nghĩ rằng: “Ích lợi gì ta giết 7 Đức Vua của 7 kinh thành này. Đức Vua Madda có 7 Công chúa rất xinh đẹp như thiên nữ là hoàng muội của Công chúa Pabhāvatī. Vậy, để 7 Đức Vua của 7 kinh thành này đã ngự đến đây không mất sự lợi ích, ta nên tâu với Đức Vua Madda  ban 7 Công chúa đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành. Đó là điều hạnh phúc biết dường nào!”

Nghĩ vậy, Đức Vua Bồ Tát Kusa tâu với Đức Vua Madda rằng:

– Tâu Đức nhạc Phụ, Đức nhạc Phụ có 7 Công chúa rất xinh đẹp như thiên nữ, kính xin Đức nhạc Phụ ban 7 Công chúa ấy đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành, để 7 Công chúa ấy trở thành Chánh cung Hoàng hậu của 7 Đức Vua ấy, và 7 Đức Vua ấy trở thành phò mã của Đức nhạc Phụ. Đó là điều hạnh phúc biết dường nào!

Nghe Đức Vua Bồ Tát Kusa tâu như vậy, Đức Vua Madda vô cùng hoan hỷ ban 7 Công chúa của mình đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành, nên tâu rằng:

– Tâu Đại Vương, Đại Vương là Đức Vua cao cả nhất trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, gồm cả 7 Đức Vua của 7 kinh thành và bổn vương cùng các Công chúa của bổn vương nữa. Vậy, chỉ có Đại Vương mới có quyền ban 7 Công chúa của bổn vương đến 7 Đức Vua của 7 kinh thành mà thôi.

Kính xin Đại Vương nhận xét thấy Công chúa nào xứng đáng với Đức Vua nào thì Đại Vương ban Công chúa ấy đến Đức Vua ấy, tùy theo ý của Đại Vương.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Kusa truyền bảo các quan cho người trang sức đầy đủ 7 Công chúa của Đức Vua Madda thật xinh đẹp lộng lẫy, rồi Đức Vua Bồ Tát Kusa ban mỗi Công chúa xứng đáng đến mỗi Đức Vua. Cho nên, 7 Công chúa và 7 Đức Vua rất hài lòng vô cùng hoan hỷ hợp với ý của mình.

Khi ấy, 7 Đức Vua và 7 Công chúa đảnh lễ Đức Vua Bồ Tát Kusa, Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, rồi xin phép hồi cung, mỗi Đức Vua và Công chúa dẫn đầu các đoàn binh ngự trở về kinh thành của mình.

Hồi Cung Ngự Trở Về Kinh Thành Kusāvatī

Nghỉ lại 2-3 ngày sau, Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī đảnh lễ Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, xin phép hồi cung ngự trở về kinh thành Kusāvatī. Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī cùng ngồi chung trên chiếc long xa sang trọng rất xứng đôi, bởi vì Đức Vua Bồ Tát Kusa có những tướng tốt của bậc đại nhân cùng với Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī có sắc đẹp tuyệt trần như thiên nữ.

Nghe tin báo Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī hồi cung ngự trở về kinh thành Kusāvatī, Mẫu hậu của Đức Vua Bồ Tát Kusa truyền lệnh các quan thông báo dân chúng trang hoàng kinh thành lộng lẫy, để đón rước Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī.

Mẫu hậu và hoàng đệ Jayampati của Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự cùng các quan các đoàn binh ra ngoài kinh thành chờ đón ruớc Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī thỉnh ngự vào kinh thành.

Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī cùng ngự vào kinh thành, rồi truyền lệnh cho dân chúng tổ chức ca hát nhảy múa vui chơi suốt 7 ngày đêm.

Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự vào cung điện, bước lên lâu đài được trang hoàng lộng lẫy. Từ đó về sau, Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī sống hòa hợp, yêu thương lẫn nhau, ngự tại kinh thành Kusāvatī, trị vì đất nước Malla được thanh bình thịnh vượng, dân chúng được sống an cư lạc nghiệp.

Đức Vua Bồ Tát Kusa và Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī thực hành bồi bổ các pháp hạnh Ba-la-mật cho đến suốt đời.

Sau khi thuyết tích Kusajātaka xong, Đức Thế Tôn thuyết giảng chân lý tứ Thánh Đế, chư tỳ khưu chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, tùy theo năng lực pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi vị.

Tích Kusataka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Kusajātaka này Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức Vua Bồ Tát Kusa trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Kusajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

Đức Phụ Vương Okkāka và Mẫu hậu Sīlavatī, nay kiếp hiện tại là Đức Phụ Vương Suddhodana và Mẫu hậu Mahāmayādevī.

Hoàng đệ Jayampati, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda.

Bà Khujjā, nay kiếp hiện tại là bà Khujjuttarā upāsikā.

Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Yasodharā.

Nhóm tùy tùng thuộc hạ, nay kiếp hiện tại là tứ chúng: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ.

Đức Vua Bồ Tát Kusa, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 Nhận Xét Về Tích Pañcapāpī Và Tích Kusajātaka

* Tích Pañcapāpī: Tiền kiếp của cô là con gái của gia đình nghèo khổ, ngồi nhồi đất cho nhuyễn để bán cho người ta trát vách nhà. Khi ấy, Đức Phật Độc Giác cần đất nhuyễn để trát vách chỗ ở của Ngài, nên Ngài mặc y, mang bát ngự vào cửa thành phía Đông kinh thành Bārāṇasī, đứng trước nhà cô gái đang nhồi đất.

Nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đứng trước nhà, cô gái phát sinh tâm sân bực mình nói rằng: “Mattikampi bhikkhati!” Đến đất mà cũng đi xin!

Dù cô nói có vẻ bực bội như vậy, Đức Phật Độc Giác vẫn đứng tự nhiên, nên cô phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật Độc Giác, rồi bạch rằng:

– Kính bạch Ngài Sa-môn, Ngài muốn được đất nhuyễn phải không? Kính thỉnh Ngài đợi con một lát.

Bạch xong, cô nhồi đất thật nhuyễn rất đặc biệt, rồi đem làm phước thiện bố thí cúng dường đất nhuyễn rất đặc biệt ấy, cung kính đặt trong bát của Đức Phật Độc Giác, Ngài đem về trát vách chỗ ở của Ngài.

Về sau, cô gái nghèo ấy chết, thiện nghiệp bố thí đất

nhuyễn ấy cho quả tái sinh đầu thai vào lòng người đàn bà nghèo, nhà ở gần cửa thành Bārāṇasī. Khi trẻ sơ sinh ra đời, thân hình có 5 bộ phận xấu xí là tay, chân, miệng, mắt, lỗ mũi, người ta gọi cô là Pañcapāpī. Đó là do quả của tác ý bất thiện trước khi làm phước thiện bố thí cúng dường đất nhuyễn đặc biệt đến Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của cô.

Khi cô trưởng thành, hễ ai tiếp xúc, đụng đến thân thể của cô, đều có cảm giác như tiếp xúc với đối tượng xúc của cõi trời, cảm giác sung sướng say mê chưa từng có.

Đó là quả báu của phước thiện hoan hỷ đang khi bố thí cúng dường đất thật nhuyễn đặc biệt đến Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của cô.

Khi trưởng thành, cô Pañcapāpī trở thành Chánh cung Hoàng hậu của 2 Đức Vua là Đức Vua Baka và Đức Vua Bāvarika. Đó là quả báu của phước thiện hoan hỷ sau khi bố thí cúng dường đất thật nhuyễn đặc biệt đến Đức Phật Độc Giác trong tiền kiếp của cô.

* Về tích Đức Vua Bồ Tát Kusa: Tiền kiếp của Đức Bồ Tát Thái tử Kusa là người em trai chồng của tiền kiếp Công chúa Pabhāvatī.

Một hôm, người chị dâu (tiền kiếp Công chúa Pabhāvatī) đem phần bánh chiên của Đức Bồ Tát em chồng, làm phước thiện bố thí, cúng dường để bát đến Đức Phật Độc Giác. Ngay khi ấy, Đức Bồ Tát em chồng từ rừng trở về, biết người chị dâu đem phần bánh chiên của mình cúng dường để bát đến Đức Phật Độc Giác. Đức Bồ Tát em chồng phát sinh tâm sân giận dữ, đến lấy lại phần bánh chiên của mình từ trong bát của Đức Phật Độc Giác. Người chị dâu nhìn thấy như vậy, nên thỉnh Đức Phật Độc Giác chờ cô về nhà cha mẹ lấy bơ lỏng mới và trong trẻo có màu giống màu hoa lan, đem về cung kính làm phước thiện bố thí cúng dường để đầy bát của Đức Phật Độc Giác, với thiện tâm vô cùng hoan hỷ.

Nhìn thấy bơ lỏng tỏa ra ánh sáng, nàng phát sinh thiện tâm trong sạch phát nguyện rằng:

– Kính bạch Ngài, do phước thiện bố thí cúng dường bơ lỏng mới trong trẻo này, xin cho thiện nghiệp bố thí này cho quả tái sinh kiếp sau của con có sắc đẹp tuyệt trần như thiên nữ, thân hình của con có ánh sáng tỏa ra suốt ngày đêm, đặc biệt xin cho kiếp sau của con không sống chung cùng một chỗ với kẻ ác như người em traichồng này của con.

Khi nghe lời phát nguyện của người chị dâu như vậy, Đức Bồ Tát em chồng vội đem phần bánh chiên của mình đến xin làm phước thiện bố thí cúng dường đặt trong bát đầy bơ lỏng của Đức Phật Độc Giác, rồi xin phát nguyện rằng:

– Kính bạch Ngài, kiếp sau của người chị dâu này của con, dù ở bất cứ nơi xa xôi nào hằng trăm do tuần đi nữa, xin cho kiếp sau của con cũng có khả năng đem về làm vợ của con cho được.

Đó là tiền kiếp của Thái tử Bồ Tát Kusa và tiền kiếp Công chúa Pabhāvatī với nghiệp của mỗi người và lời phát nguyện của mỗi người như vậy.

* Đức Bồ Tát Thái tử Kusa có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ. Đó là quả của ác nghiệp tâm sân giận dữ lấy lại phần bánh chiên của mình từ trong bát của Đức Phật Độc Giác.

* Đức vua Bồ Tát Kusa thành hôn với Công chúa Pabhāvatī, rồi tấn phong lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của mình. Đó là quả của thiện nghiệp bố thí cúng dường phần bánh chiên của mình đặt trong bát đầy bơ lỏng của Đức Phật Độc Giác, và lời phát nguyện trong tiền kiếp của Đức Vua Bồ Tát Kusa.

* Công chúa Pabhāvatī nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Kusa có thân hình và gương mặt xấu xí đáng ghê sợ, rồi bỏ Đức Vua Bồ Tát Kusa ngự trở về kinh thành Sāgala của mình. Đó là quả của thiện nghiệp bố thí cúng dường bơ lỏng mới trong trẻo, và lời phát nguyện trong tiền kiếp của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī.

* Đức Vua Bồ Tát Kusa rước Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī ngự trở lại kinh thành Kusāvatī. Đó là quả thiện nghiệp và lời phát nguyện của Đức Vua Bồ Tát Kusa có nhiều năng lực hơn lời phát nguyện của Chánh cung Hoàng hậu Pabhāvatī, nên Đức Vua trời Sakka trên cõi trời Tam thập Tam thiên trợ duyên giúp cho Đức Vua Bồ Tát Kusa được thành tựu như ý.

Nghiệp và quả của nghiệp, ác nghiệp cho quả khổ, quả xấu của ác nghiệp; thiện nghiệp cho quả an lạc, quả tốt của thiện nghiệp, theo thời kỳ của mỗi nghiệp.

2- Năng Lực Tác Ý Đang Khi Bố Thí

*Muñcacetanā: Tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, đóng vai trò quan trọng để thành tựu thiện nghiệp bố thí.

Tác ý tâm sở đồng sinh với tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm. Nhưng tác ý tâm sở là nghiệp thì chỉ đồng sinh với 12 bất thiện tâm và 21 hoặc 37 thiện tâm mà thôi. Nếu tác ý thiện tâm đồng sinh với 8 dục giới đại thiện tâm thì gọi là 8 dục giới đại thiện nghiệp.

Trong 8 đại thiện tâm có 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ và 4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ.

* 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ thì có đủ 3 nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ).

* 4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ thì có 2 nhân: vô tham và vô sân, không có vô si (trí tuệ).

Vấn: Tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí  để thành tựu thiện nghiệp bố thí trong đại thiện tâm có đủ 3 nhân và trong đại thiện tâm chỉ có 2 nhân, không có vô si như thế nào?

Đáp: * Nếu thí chủ có trí tuệ hiểu rõ nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, thì được thành tựu thiện nghiệp bố thí trong 4 đại thiện tâm hợp với trí tuệ, nên có đủ 3 nhân: vô tham, vô sân và vô si (trí tuệ).

* Nếu thí chủ không có trí tuệ, không hiểu rõ nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, thì được thành tựu thiện nghiệp bố thí trong 4 đại thiện tâm không hợp với trí tuệ, nên chỉ có 2 nhân: vô tham và vô sân, không có vô si.

Đó là năng lực của tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí để trở thành thiện nghiệp bố thí.

Thật ra, tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí trải qua thời gian lâu hoặc mau có giới hạn, vẫn chưa thành tựu thiện nghiệp bố thí thật sự, đến khi tác ý thiện tâm đang khi làm phước thiện bố thí đến người thọ thí xong, thì ngay khi ấy mới thành tựu thiện nghiệp bố thí thật sự. Trong trường hợp này, tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí vẫn có năng lực của nó.

Nếu trường hợp có tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí, nhưng không có người thọ thí, thì không thành tựu thiện nghiệp bố thí, tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí ấy không có năng lực gì.

Tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí đóng vai trò quan trọng như thế nào?

3- Năng Lực Tác Ý Sau Khi Bố Thí 

Thí chủ có tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí, đã thành tựu thiện nghiệp bố thí xong rồi. Tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí trải qua thời gian không có giới hạn, hễ khi nào thí chủ niệm tưởng đến phước thiện bố thí ấy thì phước thiện ấy càng thêm tăng trưởng nhiều. Cho nên, năng lực tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí làm cho thiện nghiệp bố thí ấy trở thành đại thiện nghiệp bậc cao (ukkaṭṭhakusala-kamma) hoặc đại thiện nghiệp bậc thấp (omakakusala-kamma)

Đại thiện nghiệp bậc cao như thế nào?

Thí chủ có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, với tác ý thiện tâm trong 2 thời kỳ: Tác ý thiện tâm hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí và nhất là tác ý thiện tâm hoan hỷ sau khi làm phước thiện bố thí, nếu cả 2 thời kỳ này với đại thiện tâm hoan hỷ và hoàn toàn trong sạch, không bị phiền não nào làm ô nhiễm thì đại thiện nghiệp này thuộc bậc cao.

 Đại thiện nghiệp bậc thấp như thế nào?

Thí chủ có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, với tác ý thiện tâm trong 2 thời kỳ: Tác ý thiện tâm trước khi làm phước thiện bố thí và nhất là tác ý thiện tâm sau khi làm phước thiện bố thí, nếu cả 2 thời kỳ này, với đại thiện tâm không hoàn toàn trong sạch, do bị phiền não làm ô nhiễm thì đại thiện nghiệp này thuộc bậc thấp.

Ví dụ: Tích Aputtakaseṭṭhivatthu ([16])

Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đề cập đến phú hộ tên Aputtaka (không có con), nên thuyết tích này được tóm lược như sau:

Đức Vua Pasenadi Kosala nghe tâu rằng:  “Phú hộ Aputtaka (không con) đã qua đời rồi, nên truyền hỏi rằng:

– Này các khanh! Tài sản của phú hộ Aputtaka không có con thừa kế sẽ thuộc về ai?

Các quan tâu rằng:

– Tâu Bệ hạ, Tài sản của phú hộ Aputtaka không có con thừa kế sẽ thuộc về Đức Vua.

Đức Vua Pasenadi Kosala truyền lệnh các quan chuyển tất cả tài sản của phú hộ Aputtaka nhập vào kho nhà vua suốt 7 ngày mới xong, rồi Đức Vua Pasenadi Kosala ngự đến hầu Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana.

Đức Thế Tôn truyền hỏi Đức Vua Pasenadi Kosala:

– Này Đại Vương, Đại Vương từ đâu ngự đến đây?

– Kính bạch Đức Thế Tôn, phú hộ Aputtaka trong kinh thành Sāvatthi vừa qua đời không có con thừa kế, nên con truyền lệnh các quan chuyển tất cả tài sản nhập vào kho nhà vua, rồi con ngự đến đây.

Nghe kể rằng: “Lúc sinh thời, phú hộ Aputtaka không hướng tâm đến sử dụng của cải, để hưởng mọi sự an lạc trong đời. Khi các gia nhân đem những món cao lương mỹ vị trên chiếc mâm bằng vàng, họ bị ông phú hộ Aputtaka đánh đuổi bảo mang đi nơi khàc. Hằng ngày, ông dùng cơm nấu bằng gạo xấu và món nước cải ngâm, chỉ dùng 2 món này mà thôi.

Khi các người gia nhân đem các thứ vải tốt, chiếc xe sang trọng, những thứ vật dụng quý giá đến, họ đều bị đánh đuổi, mang đi nơi khác. Ông phú hộ Aputtaka chỉ mặc y phục bằng thứ vải thô xấu, đi chiếc xe cũ xấu, sử dụng những thứ vật dụng loại xấu.

Suốt cuộc đời ông phú hộ Aputtaka không sử dụng các thứ vật dụng cần thiết loại sang trọng.”

* Do nguyên nhân nào ông trở thành phú hộ?

* Khi trở thành phú hộ, do nguyên nhân nào ông không sử dụng những thứ vật dụng sang trọng?

* Do nguyên nhân nào ông phú hộ tên là Aputtaka không có con thừa kế tài sản?

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết cho Đức Vua Pasenadi Kosala biết về tiền kiếp của ông phú hộ Aputtaka được tóm lược như sau:

Tiền Kiếp Của Phú Hộ Aputtaka

Trong thời quá khứ, tiền kiếp của ông phú hộ Aputtaka vốn là người không có đức tin, nhưng ông tiếp đón Đức Phật Độc Giác Tagarasikhi ngự đến khất thực tại biệt thự của ông, Trước khi ông đi lo công việc bên ngoài, bảo người vợ của ông ở nhà làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến Đức Phật Độc Giác Tagarasikhi, rồi ông đi ra khỏi nhà.

Người vợ của ông vốn là người có đức tin trong sạch nghĩ rằng: “Lâu rồi, hôm nay mới nghe người chồng bảo làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến Đức Phật Độc Giác. Vậy, hôm nay ta nên làm các món vật thực ngon lành để làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật Độc Giác.” Người vợ của ông cung kính cúng dường, đặt (vào trong bát) các món vật thực ngon lành vào đầy bát. Ngay khi ấy, ông chồng về đến nhà, bạch hỏi Đức Phật Độc Giác rằng:

– Bạch Sa-môn, Sa-môn nhận được các món vật thực nào chưa? 

Đến dở bát của Đức Phật Độc Giác, ông nhìn thấy các món vật thực ngon lành, nên phát sinh phiền não tiếc của, nghĩ rằng: “Đem các món vật thực ấy cho những người tôi tớ hay người làm công ăn, thì có lợi cho ta, bởi vì họ ăn, rồi họ làm mọi công việc của ta được. Còn Sa-môn này ăn xong, rồi ngủ, có lợi gì cho ta đâu. Các món vật thực của ta mất đi thật là uổng quá!”

Đó là tác ý sau khi làm phước thiện bố thí, cúng dường để bát đến Đức Phật Độc Giác, rồi phát sinh phiền não tiếc của làm ô nhiễm.

* Tiền kiếp của ông phú hộ có một người anh trai, khi cha mẹ qua đời để lại nhiều của cải tài sản cho 2 người con. Người anh của tiền kiếp ông phú hộ có một đứa con trai. Một hôm, đứa bé trai nói rằng: “Chiếc xe tốt đẹp này của cha con, phần con bò kia là của chú.”

Nghe bé trai con người anh nói như vậy, tiền kiếp của ông phú hộ nghĩ rằng: “Bây giờ nó còn bé nhỏ mà đã nói như vậy, đến khi trưởng thành, nó sẽ chiếm phần nhiều của cải trong nhà này.” Nên ông dẫn đứa bé vào trong rừng, bóp cổ đứa bé chết, rồi đem chôn dưới gốc cây.

Đó là những thiện nghiệp và ác nghiệp của tiền kiếp của ông phú hộ Aputtaka.

Quả Của Các Nghiệp Của Phú Hộ Aputtaka

* Phước thiện tiếp đón, bảo người vợ bố thí cúng dường vật thực để bát Đức Phật Độc Giác Tagarasikhi, cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới 7 kiếp; cũng do nhờ quả của phước thiện bố thí ấy cho quả tái sinh làm người trong kinh thành Sāvatthi, rồi trở thành phú hộ 7 kiếp.

Do tác ý sau khi làm phước thiện bố thí, cúng dường vật thực đến Đức Phật Độc Giác Tagarasikhi, rồi phát sinh phiền não tiếc của, nghĩ rằng: “Đem các món vật thực ấy cho những người tôi tớ hay người làm công ăn, thì có lợi cho ta, bởi vì họ ăn, rồi họ làm mọi công việc của ta được. Còn Sa-môn này ăn xong, rồi ngủ, có lợi gì cho ta đâu. Các món vật thực của ta mất đi thật là uổng quá!” Vì vậy, ông phú hộ không hướng tâm đến sử dụng của cải để đem lại sự an lạc trong cuộc sống.

Hằng ngày, ông phú hộ ăn cơm nấu bằng gạo xấu, mặc y phục thứ vải thô xấu, đi chiếc xe xấu cũ, sử dụng những thứ vật dụng cần thiết xấu, v.v…

*Ác nghiệp sát sinh đứa bé trai con người anh vì của cải, cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng 100 ngàn năm. Đến khi mãn quả của ác nghiệp, thoát ra khỏi cõi địa ngục, phước thiện bố thí, cúng dường vật thực đến Đức Phật Độc Giác ấy có cơ hội cho quả tái sinh làm người trong kinh thành Sāvatthi, rồi trở thành phú hộ không có con gọi là phú hộ Aputtaka lần thứ 7 này.

Đó là quả của phước thiện bố thí ấy còn lại.

Phước thiện bố thí cũ của phú hộ Aputtaka không còn năng lực nữa, phước thiện mới không tích lũy, nên phú hộ Aputtaka sau khi chết, ác nghiệp sát sinh lại cho quả tái sinh trong cõi địa ngục mahāroruva niraya, chịu quả khổ trong cõi địa ngục ấy.

Cho nên, thí chủ có đức tin trong sạch làm phước thiện bố thí đến người thọ thí, nên có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ đầy đủ cả 3 thời:

– Pubbacetanā: Tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí.

– Muñcacetanā: Tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí.

– Aparacetanā: Tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí.

Thí chủ làm phước thiện bố thí có đầy đủ 3 thời như vậy, nếu thiện nghiệp bố thí ấy có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) làm người thì hưởng được quả báu an lạc từ sau thời kỳ tái sinh (pavattikāla) trong lòng mẹ, thời kỳ sinh ra đời (pasūtikāla), thời ấu niên, thời trung niên cho đến thời lão niên đều hưởng được mọi quả báu an lạc của thiện nghiệp bố thí ấy.

Bậc Thiện Trí Bố Thí (Sappurisadāna)

Trong kinh Sappurisadānasutta ([17]) Đức Thế Tôn dạy bậc thiện trí làm phước thiện bố thí có 5 chi pháp là:

1- Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với đức tin trong sạch, sẽ được quả báu có nhiều của cải, giàu sang phú quý, và đặc biệt là người có sắc thân xinh đẹp, có làn da mịn màng trắng trẻo, sạch sẽ, đáng cho mọi người ngưỡng mộ.

2- Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với thiện tâm cung kính, sẽ được quả báu có nhiều của cải, giàu sang phú quý, và đặc biệt là vợ con, tôi tớ, người làm công, bạn hữu, các thuộc hạ, v.v…đều lắng nghe và cung kính vâng lời làm theo lời khuyên bảo, dạy dỗ.

3- Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, đúng lúc, sẽ được quả báu có nhiều của cải, giàu sang phú quý, và đặc biệt khi bậc thiện trí muốn có được những thứ vật dụng nào thì sẽ có được những thứ vật dụng ấy đúng theo tâm mong muốn của mình.

4- Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với thiện tâm tế độ người thọ thí, sẽ được quả báu có nhiều của cải, giàu sang phú quý, và đặc biệt là bậc thiện trí hướng tâm sử dụng của cải để đem lại sự an lạc hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.

5- Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ

mình, không làm khổ người, khổ chúng sinh khác, sẽ được quả báu có nhiều của cải, giàu sang phú quý, và đặc biệt tất cả của cải tài sản không bị lửa thiêu hủy, không bị nước ngập lụt làm hư hỏng, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị nhà nước tịch thu, không bị người không ưa thích thừa hưởng.

Đó là 5 pháp của bậc thiện trí làm phước thiện bố thí và quả báu của mỗi pháp.

1- Saddhadāna: Bố thí với đức tin trong sạch. Bậc thiện trí bố thí với đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp. Phước thiện bố thí với đức tin trong sạch này sẽ có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.

2- Sakkaccadāna: Bố thí với đại thiện tâm cung kính. Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với đại thiện tâm cung kính và vật thí phát sinh một cách hợp pháp. Phước thiện bố thí với đại thiện tâm cung kính này sẽ có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là toàn thể gia đình, bà con, thân quyến, bạn hữu, tôi tớ, người làm công, các thuộc hạ, v.v…cả thảy đều ngoan ngoãn nghe theo lời khuyên bảo của mình.

3- Kāladāna: Bố thí đúng thời, đúng lúc. Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí hợp thời, đúng lúc như bố thí trong dịp lễ dâng y tắm mưa đến chư tỳ khưu Tăng trước khi an cư nhập hạ, trong dịp lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng ra hạ, bố thí đến Tỳ khưu khách vừa mới đến, Tỳ khưu sắp đi xa, Tỳ khưu bệnh, người bệnh, người đang đói khát, v.v… Phước thiện bố thí hợp thời, đúng lúc này sẽ có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là có quả báu tốt từ thuở ấu niên, thời trung niên cho đến thời lão niên, muốn những thứ vật dụng nào cũng được thứ vật dụng ấy như ý một cách dễ dàng, mà người khác khó mà có được,…

4- Anuggahadāna: Bố thí với thiện tâm tế độ người thọ thí. Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí với thiện tâm tế độ người thọ thí. Phước thiện bố thí với thiện tâm tế độ người thọ thí này sẽ có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là hướng tâm sử dụng của cải để đem lại sự an lạc hạnh phúc trong cuộc sống hằng ngày.

5- Anupahaccadāna: Bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người, khổ chúng sinh khác. Bậc thiện trí làm phước thiện bố thí không làm khổ mình, không làm khổ người, khổ chúng sinh khác, sẽ có quả báu giàu sang phú quý, và đặc biệt nhất là tất cả của cải tài sản không bị thiệt hại do lửa thiêu hủy, không bị nước ngập lụt làm hư hỏng, không bị kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không bị nhà nước tịch thu, không bị người không ưa thích thừa hưởng của cải tài sản của mình.

 Thuyết về phước thiện bố thí, Đức Phật dạy Dhammapadagāthā câu kệ thứ 354 rằng:

354-“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti,

Sabbarasaṃ dhammaraso jināti.

Sabbaratiṃ dhammarati jināti,

Taṇhakkhayo sabbadukkhaṃ jināti.”

*Pháp thí là cao thượng hơn mọi phước thiện bố thí,

*Pháp vị của 9 Siêu tam giới thiện pháp là cao thượng hơn mọi vị ngon, hương thơm trong đời.

*Pháp hỷ trong chánh pháp là cao thượng hơn mọi sự hoan hỷ trong đời.

*Bậc Thánh A-ra-hán đã tận diệt mọi tham ái rồi là

 thắng mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Những Tính Chất Của Phước Thiện Bố Thí

Bố thí có những tính chất như sau:

1- Pariccāgalakkhaṇa: Phước thiện bố thí có trạng thái đem ban cho người khác, chúng sinh khác.

2- Lobhaviddhaṃsanarasa: Phước thiện bố thí có phận sự tiêu diệt tâm tham trong của cải.

3- Bhavibhavasampattipaccuppaṭṭhānaṃ: Phước thiện bố thí có sự đầy đủ trong kiếp sống và giải thoát khỏi kiếp sống là kết quả hiện hữu.

4- Saddheyyapadaṭṭhānaṃ: Đức tin trong sạch nơi đáng có đức tin trong sạch là nguyên nhân gần của phước thiện bố thí.

*Paṭikkhepadhamma: Pháp nghịch với phước thiện bố

thí, đó là tâm tham (lobha).

*Anuññātadhamma: Pháp giúp tạo cơ hội phước thiện bố thí, đó là tâm vô tham (alobha).

(Nên xem quyển “Tìm Hiểu Phước Bố Thí” cùng soạn giả, để hiểu rõ phước thiện bố thí).            

     (Xong phần phước thiện bố thí)


[1] Bộ Aṅguttaranikāya, chattanipātapāḷi, Kinh Chaḷaṅgadānasutta

[2] M. Uparipaṇṇāsapāli, Kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta

[3] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā Tích Cūḷekasāṭakabrāhmaṇavatthu

[4] 5 Pháp Pīti: Khuddakāpīti, khaṇikāpīti, okkantikāpīti, ubbeṅgāpīti, pharaṇāpīti.

[5] Bộ Chú giải Vimānavatthu, Tích Bhikkhādāyakavimāna

[6] Bộ Vimānavatthu, Tích Ambavimāna

[7] Từ thời kỳ Đức Phật Vipassī đã xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian có khoảng cách thời gian 91 đại kiếp trái đất.

[8] Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya Tích Ngài Đại Đức Bākula

[9] Từ thời kỳ Đức Phật Anomadassī đến thời kỳ Đức Phật Gotama có khoảng cách thời gian 1 a-tăng-kỳ với 100 ngàn đai kiếp trái đất

[10] Từ thời kỳ Đức Phật Padumuttara đến thời kỳ Đức Phật Gotama có khoảng cách thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất.

[11] Từ thời kỳ Đức Phật Vipassī đến thời kỳ Đức Phật Gotama có khoảng cách thời gian 91 đại kiếp trái đất

[12] Bộ Majjhimanikāya, lễ tắm đứa con sau khi sinh được 5 ngày

[13] Trong các bộ M.U.Aṭṭhakathā, Aṅguttaranikāya, Dhammapadatṭhakathā, Ahidhamma aṭṭhakathā, v.v.….

[14] Trong Chú giải Jātakaṭṭhakathā, tích Kuṇālajātaka

[15] Bộ Chú giải Jātaka, Phần Sattatinipāta, Tích Kusajātaka

[16] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Aputtakaseṭṭhivatthu

[17] Bộ Aṅguttaranikāya, phần 5 chi, kinh Sappurisadānasutta

Nguồn: Cuốn  Phước Thiện của Tỳ Khưu Hộ Pháp

About nuirungvienkhong

an lạc là đây

Posted on Tháng Năm 31, 2012, in Tổng Hợp. Bookmark the permalink. Bình luận về bài viết này.

Bình luận về bài viết này